Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hà Nội , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 89
Số lượng câu trả lời 492
Điểm GP 70
Điểm SP 375

Người theo dõi (59)

Phuong Nguyen
công
ĐỖ CHÍ DŨNG

Đang theo dõi (1)

Học 24h

Câu trả lời:

Câu 1 : Tìm từ đồng âm với các từ sâu đây và đặt câu với mỗi từ

-Đồng âm với từ "bạc" thì phải là "bạc" chứ còn gì nữa.
Bạc có các từ đồng âm khác nghĩa sau:

1- bạc với nghĩa chỉ vật dùng để mua bán trao đổi, tương tự như tiền. Thường dùng kèm với từ tiền trong bạc tiền;
2- bạc chỉ một thứ kim loại có màu sáng trắng, dẫn điện và nhiệt rất tốt;
3- bạc chỉ thái độ thiếu chung thủy trong nghĩa "phụ bạc", bạc đãi
4- bạc chỉ sắc thái bệnh lý. VD: khuôn mặt bạc đi vì đau đớn;
5- bạc chỉ sự vất vả, lao khổ: ví dụ bạc mặt vì kiếm ăn;
6- bạc chỉ thái độ khinh rẻ trong đối xử. VD: Vua bạc đãi người hiền tài;
7- bạc chỉ màu sắc đồ vật có ánh sáng bóng. VD: màu bạc

+ đặt câu: cái nhẫn của mẹ tôi bằng bạc

- đồng âm với từ canh:

1.món ăn có nhiều nước, thường nấu bằng rau với thịt hoặc tôm cá, dùng ăn với cơm Vd : nấu canh, bát canh

2.sợi dọc trên khung cửi hay máy dệt đã luồn qua go và khổ; phân biệt với sợi ngang, gọi là chỉ. VD: canh tơ chỉ vải

3.từ dùng để chỉ từng đơn vị riêng lẻ trong những buổi đánh bạc (thường về ban đêm) VD: canh bạc

4.luôn luôn trông coi để đề phòng bất trắc VD: canh đê phòng lụt

5.làm cho đặc lại bằng cách đun nhỏ lửa VD: canh thuốc, canh mật

+ đặt câu: mẹ tôi nấu canh rất ngon

- đồng âm với từ dò

1.nhánh cây hoa, cây cảnh được trồng riêng (với một số loại cây) VD dò phong lan, dò thủy tiên

2.bẫy thường làm bằng dây thòng lọng để bắt chim VD "Chim khôn tránh lưới mắc dò, Cá khôn tránh mãi, lững lờ mắc đăng.

3.đi một cách thận trọng, từng bước một (do có điều bất lợi nào đó) VD dò từng bước trong đêm tối

4.tìm biết, tìm hiểu dần dần từng bước một cách mò mẫm VD dò tìm manh mối

5.soát lại một cách cẩn thận bằng cách lần tìm những chỗ sai sót VD dò bản đánh máy, dò bài cho con

+ đặt câu: Hôm qua bố tôi mua cây dò phong lan rất đẹp

- đồng âm với thừ đáp

-hạ xuống và dừng lại ở một vị trí nào đó, không bay nữa

đàn cò đáp xuống cánh đồng

trực thăng đáp đất

-(Khẩu ngữ) ném mạnh và thẳng vào một cái đích nào đó

đáp thẳng quyển sách vào mặt hắn

-đính thêm miếng vật liệu khác và khâu áp sát vào (thường nói về quần áo)

đáp thêm một miếng vải vào chỗ ống quần bị rách

Đồng nghĩa: táp

-lên một phương tiện vận tải hành khách để đi tới một nơi nào đó

đáp tàu hoả lên Lạng Sơn

-như trả lời (ng1)

đáp lại câu hỏi của bạn

kẻ hỏi người đáp

ngồi lặng im không đáp

-biểu thị bằng hành động, thái độ (thường là đồng tình) trước yêu cầu của người khác

đáp lời kêu gọi

-biểu thị bằng hành động, thái độ tương xứng với việc làm, thái độ (thường là tốt) của người khác đối với mình

mỉm cười chào đáp

+ đặt câu : đàn cò mỏi cánh đáp xuống đồng

Câu trả lời:

Những câu tục ngữ: "Đường dài hay sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay", "Gặp cơn đại loạn mới hay trung thần" là sự đúc kết kinh nghiệm, rút ra bài học về phẩm chất đạo đức của bề tôi đối với vua chúa, minh chủ… bộc lộ trong chiến tranh.
Câu triết luận khác trong kho tàng tục ngữ Việt Nam: "Có gió rung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao", một mặt, không phải là quá trừu tượng, khó hiểu đối với người lĩnh hội; mặt khác, quan trọng hơn, có tính khái quát cao và chứa đựng ý nghĩa, giá trị rất sâu sắc. Cây "tùng, bách" và vật phẩm "vàng" ở đây được dùng hoán đổi cho "phẩm chất đạo đức của con người". Qua bão táp, ta sẽ biết tùng, bách cứng cáp, vững chắc hoặc yếu mềm, gục ngã; và qua lửa đỏ, sẽ biết được giá trị cao hay thấp, thực hay giả của "vàng". Triết lý mà câu tục ngữ này muốn chuyển tải không phải gì khác hơn là, muốn biết phẩm chất đạo đức của con người tốt xấu như thế nào phải kiểm nghiệm qua thực tiễn.

Câu tục ngữ: "Lửa thử vàng, gian nan thử đức" muốn nói rằng, cần phải thông qua công việc khó khăn gian khổ, hay một cách khái quát hơn, phải thông qua hoạt động thực tiễn để kiểm định, đánh giá đạo đức của con người. "Lửa" và "vàng" trong câu triết luận này là một thủ pháp nghệ thuật (ẩn dụ, hoán dụ). Ngọn "lửa" biểu thị những khó khăn, thử thách mà con người thường gặp trong cuộc sống và "vàng” biểu thị năng lực, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức của con người.

Hàng loạt câu tục ngữ khác, như "Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con"; "Cha anh hùng, con hảo hán"; "Của rẻ của ôi, tôi rẻ tối trốn, vợ rẻ vợ lộn"; "Nứa trôi sông chẳng giập thì gãy, gái chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia” đều phản ánh sự suy luận về phẩm chất đạo đức của con người trên cơ sở những nhận thức trực quan, cảm tính. Nội dung, ý nghĩa chính được hàm chứa trong các triết lý trên và chuyển tải đến người tiếp cận chúng là: bởi cha mẹ hiền, suy ra con cái họ cũng có đạo đức tất; người đàn bà đã bị chồng khước từ, ruồng bỏ có thể là người có vấn đề về phẩm chất đạo đức.

Câu triết luận rằng, “thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết con người có nhân" thực sự sâu sắc, nó là lời nhắc nhở chung đối với mọi người trong việc nhận thức, đánh giá thế giới quanh mình, kể cả con người; đặc biệt là cho những ai có thói quen mới tiếp xúc, công tác với người khác được một thời gian không lâu, thậm chí là quá ngắn ngủi đã vội đưa ra những nhận xét không đúng về phẩm chất đạo đức của họ. Những ai có phần vội vàng như thế trong đánh giá, nhận xét con người nói chung, phẩm chất đạo đức của con người nói riêng thì thường sớm có lời khen rồi lại nhanh có sự chê bai, cái chính đều do mình phát ngôn trước đó. Nói tóm lại, để kiểm định được phẩm chất đạo đức của con người một cách chính xác thì cần phải có thời gian. Câu tục ngữ đã dẫn ở trên là một triết lý mang tính khái quát và có giá trị chỉ dẫn cho chúng ta trong việc xem xét, kiểm định đạo đức của con người.

Câu trả lời:

Câu Đối - Chơi chữ trong câu đối

Sáng tác và thưởng thức câu đối là một thú phong nhã của người Việt từ xưa đến nay. Những câu đối độc đáo và giá trị đều là những câu đối có vận dụng tài tình tiếng nói của dân tộc. Bởi vậy, chơi chữ giữ vai trò hết sức quan trọng trong câu đối. Có trên mười kiểu chơi chữ khác nhau trong câu đối xưa và nay:

1. Sử dụng chữ điệp âm đầu:

-Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt
Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương

-Tết tiếc túng tiền tiêu
Tính toán toan tìm tay tử tế

-Cô kia còn kênh kiệu
Kỹ càng cố kén cậu căn cơ

-Hội hè hòng hí hửng
Hỏi han hàng họ hẳn hay ho

-Mới mẻ mừng mợ mạnh
Mỹ miều mà mở mặt môn mi

-Aí ân êm ấm ấy
Ỡm ờ uốn éo ý yêu ai


2. Thay đối trật tự các chữ (hay nói ngược):

-Vợ cả, vợ hai, (hai vợ) cả hai đều là vợ cả.
Thầy tu, thầy chùa, chùa thầy cứ việc thầy tu.



-Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.
Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện.


3. Đưa các chữ cùng một đối tượng, một khái niệm vào trong câu đối

Tập trung các chữ chỉ mùa và hướng:

-Chợ Đồng Xuân bán bánh trung thu, đông thì đông, nhưng không bán hạ
-Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây, vẫn dựng kiểu Nam.


Tập trung nhiều tên cây:

-Thầy Bá Bưởi đi xuống cầu Chanh, đồ đề chi mà bưng bồng kín mít.
Cô Tư hồng ở làng cầu Cậy, nhân duyên gì mà quấn quít cho cam.


Nhân một cuộc nhàn du, đến thăm ngôi chùa nọ, thấy Sư Cụ trụ trì có viết một vế đối ra cho khách thập phương tới lễ chùa rằng:

-Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chẳng thần, thánh, Phật, Tiên nhưng khác tục!

Cụ Nguyễn Công Trứ cho rằng nhà tu hành có vẻ tự kiêu quá nên đã đốii lại:

-Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, ***** ra người!

4. Vận dụng sự nói lái :

Khá hay, nhưng khi nói lái, nhiều từ ngữ lại mang nghĩa tục

Câu này khá thông dụng:


-Con cá đối nằm trên cối đá

Đặc biệt, mỗi thành phần của hai vế đều là nói lái:

-Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy.
Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo.


5. Vận dụng các chữ đồng âm :

Khá thú vị

-Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa
Thằng mù nhìn thằng mù (bù) nhìn, thằng mù (bù) nhìn không nhìn thằng mù


Ngày nay Ngày Nay in nhà in nhà.
(Ngày Nay là tên một tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn)

-Trọng tài trọng tài vận động viên,
Vận động viên động viên trọng tài.


6. Tách chữ :

Các chữ công kênh, cồng kềnh, cóc cách, cọc cạch được tách ra ở hai vế:

-Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng, nó kềnh cổ lại
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi trúng cọc, nó cạch đến già.

(Chùa Kêng ở Bắc Ninh, kềnh là ngoảnh lại, vọng cách là cây dùng để ăn gỏi, cạch là chừa bỏ vì sợ)

Các chữ kim chỉ, vá may:

-Ngựa kim ăn cỏ chỉ
Chó vá cắn thợ may


Tách tên nhân vật:

-Thúy Kiều đi qua cầu, nhác thấy chàng Kim lòng đã Trọng
Trọng Thủy nhòm vào nước, thoáng nhìn nàng Mỵ mắt rơi Châu.


7. Vận dụng chữ trái nghĩa:

Câu đối của Tú Cát và Trạng Quỳnh:

-Trời sinh ông Tú Cát
Đất nẻ con bọ hung

(Hán Việt, cát là tốt, hung là xấu)

8. Vận dụng cả đồng âm lẫn đồng nghĩa :

Câu đối của bà Đoàn Thị Điểm bắt bí Trạng Quỳnh:

-Da trắng vỗ bì bạch
(Bì bạch là Hán Việt, đồng nghĩa với da trắng & đồng âm với từ tượng thanh bì bạch)

-Rừng sâu mưa lâm thâm
Cô Miên ngủ một mình
Trời xanh màu thiên thanh

-Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư

-Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc,
Thử đêm nay chuột có cắn không

-Tùng tùng hồi trống đào cây thông,
Ô cành nọ quạ không đậu được


Có một vế thách đối hóc búa, đang chờ người tài hoa:

-Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử
(Các chữ Hán Việt hồi hương, phụ tử đồng nghĩa với về quê, cha con và đồng âm với tên hai vị thuốc bắc hồi hương, phụ tử)

9. Lấy hai câu thơ trong Truyện Kiều rồi thêm hoặc bớt một tiếng:

Câu đối dán ở cửa buồng vợ lẽ:

-Khi vào dùng dằng, khi ra vội ..
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng ..


(Bỏ hai chữ vàng và chung)

Câu đối Tết

Người Việt Nam chúng ta mỗi dịp xuân về có tục chơi câu đối Tết. Tục này không biết rõ phát sinh từ thời nào nhưng chắc chắn là cũng lâu lắm rồi. Câu đối sau đây chắc không ai trong chúng ta mà không biết:

-Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh


-Xuân lai tăng lộc thọ
Phúc đáo vĩnh Khang Ninh


Những câu đối của Hy Văn tướng công Nguyễn Công Trứ:

Tả cảnh nghèo của một kẻ sĩ:

-Tối ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

-Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một.
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.


Trong cảnh thanh bần, nhiều khi không đợi, không mong mà xuân vẫn cứ đến:

-Duột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết.
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mùng một rứa cũng xuân.

-Bàn một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái.
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.


Cụ cũng giúp cho người mù, không biết màu sắc Xuân, hương vị Tết ra sao một câu đối tức cảnh:

-Tối ba mươi nghe tiếng pháo Giao Thừa ờ ờ Tê't.
Sáng mùng một vấp nêu Nguyên Đán à à Xuân.


Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với lời thơ lãng mạn, đã làm câu đối Tết rất trào lộng:

-Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới
-Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.

Nguyễn Thị Ngọc Bảo Nguyễn Thị Ngọc Bảo8 giờ trước (21:22)

Câu đối Tết

Người Việt Nam chúng ta mỗi dịp xuân về có tục chơi câu đối Tết. Tục này không biết rõ phát sinh từ thời nào nhưng chắc chắn là cũng lâu lắm rồi. Câu đối sau đây chắc không ai trong chúng ta mà không biết:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh


Xuân lai tăng lộc thọ
Phúc đáo vĩnh Khang Ninh


Những câu đối của Hy Văn tướng công Nguyễn Công Trứ:

Tả cảnh nghèo của một kẻ sĩ:

Tối ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một.
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.


Trong cảnh thanh bần, nhiều khi không đợi, không mong mà xuân vẫn cứ đến:

Duột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết.
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mùng một rứa cũng xuân.

Bàn một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái.
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.


Cụ cũng giúp cho người mù, không biết màu sắc Xuân, hương vị Tết ra sao một câu đối tức cảnh:

Tối ba mươi nghe tiếng pháo Giao Thừa ờ ờ Tê't.
Sáng mùng một vấp nêu Nguyên Đán à à Xuân.


Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với lời thơ lãng mạn, đã làm câu đối Tết rất trào lộng:

Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.

Câu trả lời:


Câu Đối - Chơi chữ trong câu đối

Sáng tác và thưởng thức câu đối là một thú phong nhã của người Việt từ xưa đến nay. Những câu đối độc đáo và giá trị đều là những câu đối có vận dụng tài tình tiếng nói của dân tộc. Bởi vậy, chơi chữ giữ vai trò hết sức quan trọng trong câu đối. Có trên mười kiểu chơi chữ khác nhau trong câu đối xưa và nay:

1. Sử dụng chữ điệp âm đầu:

-Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt
Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương

-Tết tiếc túng tiền tiêu
Tính toán toan tìm tay tử tế

-Cô kia còn kênh kiệu
Kỹ càng cố kén cậu căn cơ

-Hội hè hòng hí hửng
Hỏi han hàng họ hẳn hay ho

-Mới mẻ mừng mợ mạnh
Mỹ miều mà mở mặt môn mi

-Aí ân êm ấm ấy
Ỡm ờ uốn éo ý yêu ai


2. Thay đối trật tự các chữ (hay nói ngược):

-Vợ cả, vợ hai, (hai vợ) cả hai đều là vợ cả.
Thầy tu, thầy chùa, chùa thầy cứ việc thầy tu.



-Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.
Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện.


3. Đưa các chữ cùng một đối tượng, một khái niệm vào trong câu đối

Tập trung các chữ chỉ mùa và hướng:

-Chợ Đồng Xuân bán bánh trung thu, đông thì đông, nhưng không bán hạ
-Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây, vẫn dựng kiểu Nam.


Tập trung nhiều tên cây:

-Thầy Bá Bưởi đi xuống cầu Chanh, đồ đề chi mà bưng bồng kín mít.
Cô Tư hồng ở làng cầu Cậy, nhân duyên gì mà quấn quít cho cam.


Nhân một cuộc nhàn du, đến thăm ngôi chùa nọ, thấy Sư Cụ trụ trì có viết một vế đối ra cho khách thập phương tới lễ chùa rằng:

-Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chẳng thần, thánh, Phật, Tiên nhưng khác tục!

Cụ Nguyễn Công Trứ cho rằng nhà tu hành có vẻ tự kiêu quá nên đã đốii lại:

-Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, ***** ra người!

4. Vận dụng sự nói lái :

Khá hay, nhưng khi nói lái, nhiều từ ngữ lại mang nghĩa tục

Câu này khá thông dụng:


-Con cá đối nằm trên cối đá

Đặc biệt, mỗi thành phần của hai vế đều là nói lái:

-Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy.
Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo.


5. Vận dụng các chữ đồng âm :

Khá thú vị

-Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa
Thằng mù nhìn thằng mù (bù) nhìn, thằng mù (bù) nhìn không nhìn thằng mù


Ngày nay Ngày Nay in nhà in nhà.
(Ngày Nay là tên một tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn)

-Trọng tài trọng tài vận động viên,
Vận động viên động viên trọng tài.


6. Tách chữ :

Các chữ công kênh, cồng kềnh, cóc cách, cọc cạch được tách ra ở hai vế:

-Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng, nó kềnh cổ lại
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi trúng cọc, nó cạch đến già.

(Chùa Kêng ở Bắc Ninh, kềnh là ngoảnh lại, vọng cách là cây dùng để ăn gỏi, cạch là chừa bỏ vì sợ)

Các chữ kim chỉ, vá may:

-Ngựa kim ăn cỏ chỉ
Chó vá cắn thợ may


Tách tên nhân vật:

-Thúy Kiều đi qua cầu, nhác thấy chàng Kim lòng đã Trọng
Trọng Thủy nhòm vào nước, thoáng nhìn nàng Mỵ mắt rơi Châu.


7. Vận dụng chữ trái nghĩa:

Câu đối của Tú Cát và Trạng Quỳnh:

-Trời sinh ông Tú Cát
Đất nẻ con bọ hung

(Hán Việt, cát là tốt, hung là xấu)

8. Vận dụng cả đồng âm lẫn đồng nghĩa :

Câu đối của bà Đoàn Thị Điểm bắt bí Trạng Quỳnh:

-Da trắng vỗ bì bạch
(Bì bạch là Hán Việt, đồng nghĩa với da trắng & đồng âm với từ tượng thanh bì bạch)

-Rừng sâu mưa lâm thâm
Cô Miên ngủ một mình
Trời xanh màu thiên thanh

-Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư

-Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc,
Thử đêm nay chuột có cắn không

-Tùng tùng hồi trống đào cây thông,
Ô cành nọ quạ không đậu được


Có một vế thách đối hóc búa, đang chờ người tài hoa:

-Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử
(Các chữ Hán Việt hồi hương, phụ tử đồng nghĩa với về quê, cha con và đồng âm với tên hai vị thuốc bắc hồi hương, phụ tử)

9. Lấy hai câu thơ trong Truyện Kiều rồi thêm hoặc bớt một tiếng:

Câu đối dán ở cửa buồng vợ lẽ:

-Khi vào dùng dằng, khi ra vội ..
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng ..


(Bỏ hai chữ vàng và chung)

Câu đối Tết

Người Việt Nam chúng ta mỗi dịp xuân về có tục chơi câu đối Tết. Tục này không biết rõ phát sinh từ thời nào nhưng chắc chắn là cũng lâu lắm rồi. Câu đối sau đây chắc không ai trong chúng ta mà không biết:

-Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh


-Xuân lai tăng lộc thọ
Phúc đáo vĩnh Khang Ninh


Những câu đối của Hy Văn tướng công Nguyễn Công Trứ:

Tả cảnh nghèo của một kẻ sĩ:

-Tối ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

-Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một.
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.


Trong cảnh thanh bần, nhiều khi không đợi, không mong mà xuân vẫn cứ đến:

-Duột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết.
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mùng một rứa cũng xuân.

-Bàn một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái.
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.


Cụ cũng giúp cho người mù, không biết màu sắc Xuân, hương vị Tết ra sao một câu đối tức cảnh:

-Tối ba mươi nghe tiếng pháo Giao Thừa ờ ờ Tê't.
Sáng mùng một vấp nêu Nguyên Đán à à Xuân.


Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với lời thơ lãng mạn, đã làm câu đối Tết rất trào lộng:

-Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới
-Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.

Câu trả lời:

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng”

(“Lượm” - Tố Hữu)

Trong đoạn thơ trên, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng rất tinh tế biện pháp so sánh.

Chú bé Lượm, một chú bé “loắt choắt” với “cái xắc xinh xinh”, “cái chân thoăn thoắt”, “cái đầu nghênh nghênh”, “ca lô đội lệch”, “mồm huýt sáo vang”, khiến tác giả liên tưởng đến hình ảnh “con Chim Chích nhảy trên đường vàng”. Chim Chích là loài chim gần gũi với hình ảnh những làng quê Việt Nam. Chim Chích nhỏ nhưng nhanh nhẹn, rất đáng yêu. So sánh hình ảnh chú bé Lượm với hình ảnh con chim chích, nhà thơ đã gợi lên dáng vẻ nhỏ nhắn, hoạt bát, tinh nghịch của chú. Không chỉ vậy, đó còn là “con Chim Chích nhảy trên đường vàng”. Hình ảnh “đường vàng” gợi đến hình ảnh con đường đầy nắng vàng mà chú bé Lượm đang tiến bước. “Con đường vàng” ấy cũng chính là con đường vinh quang của cách mạng mà Lượm đang dũng cảm bước đi.

Hình ảnh chú bé Lượm trong những câu thơ trên đã được lặp lại ở cuối bài thơ, đó giống như những dòng hồi ức, những dòng tưởng niệm về người đồng chí nhỏ của tác giả. Hình ảnh chú bé hồn nhiên, đáng yêu ngân vang mãi trong những dòng thơ cuối bài như một lời nhắn nhủ: Lượm sẽ còn sống mãi trong trái tim mỗi chúng ta.

Câu trả lời:

I. Mở bài:
- Giới thiệu một vài nét về tác giả:
+ Hồ Xuân Hương, nữ sĩ tài ba được ca ngợi là ‘bà chúa thơ Nôm’.
+ Nữ sĩ còn để lại khoảng 50 bài thơ Nôm.
+ Thơ bà có đề tài bình dị, ngôn ngữ thuần Nôm, rất sắc sảo, hóm hỉnh, đa nghĩa.
+ Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói ngợi ca phẩm chất tốt đẹp, là lời cảm thông, bênh vực người phụ nữ trong cuộc đời.
- Giới thiệu văn bản và chủ đề bài thơ.
+ Bài thất ngôn tứ tuyệt ‘bánh trôi nước’ tiêu biểu cho hồn thơ của nữ sĩ (chép trọn vẹn văn bản):
‘Thân em... tấm lòng son’
+ Chủ đề: Qua việc miêu tả chiếc bánh trôi nước, nữ sĩ gửi gắm bao tình cảm tốt đẹp về phẩm chất và thân phận của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời.

II. Thân bài:
‘Bánh trôi nước’ là một bài thơ bình dị về đề tài, mang hàm nghĩa sâu sắc.
1. Bài thơ tả thực cái bánh trôi nước, một món ăn dân tộc được làm bằng bột nếp, sắc trắng trong, dáng bánh tròn. Nhân bánh bằng đường phên (tấm lòng son). Bánh được nấu chín trong nồi nước sôi ‘bảy nổi ba chìm với nước non’.
2. Câu thơ thứ nhất nhân hóa cái bánh:
‘Thân em vừa trắng lại vừa tròn’
‘Thản em’là một cách nói khiêm nhường, dịu dàng, kín đáo, một nét đẹp của thiếu nữ.
- Hai vế tiểu đối: ‘vừa trắng II vừa tròn’ có giá trị gợi tả, liên tưởng về vẻ đẹp trinh trắng, duyên dáng của thiếu nữ.
3. Câu thơ thứ 2 và thứ 3 mang hàm nghĩa về thân phận người phụ nữ trong cuộc đời ngày xưa:
‘Bảy nổi ba chìm với nước non,
Rắn nát mặc dù tay kẻ nặn’
- Thành ngữ được vận dụng ‘bảy chìm ba nổi, chín lênh đênh’ trong văn cảnh hàm ý về thân phận vất vả của người phụ nữ, chịu nhiều thiệt thòi do lễ giáo phong kiến trọng nam khinh nữ, do đạo ‘tam tòng’ khắc nghiệt... gây nên.
- Hai chữ ‘rắn nát’ ấm chí sô' phận của người phụ nữ được sung sướng hạnh phúc, hoặc bất hạnh đều do ‘tay ke’ nặn’, do cha mẹ hay chồng con định đoạt. Việc hôn nhân do cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Đạo tam tòng chính là ‘tay kẻ nặn’...
- Vần thơ biểu lộ niềm cảm thông sâu sắc của nữ sĩ đối với số phận, thân phận người phụ nữ ngày xưa.
4.Câu cuối, hình ảnh ẩn dụ ‘tấm lòng son’ nói về lòng son sắt thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Đó là vẻ đẹp đôn hậu, vị tha của người mẹ, người chị quê ta.
- Cấu trúc câu thơ: ‘Mặc dù... mà vẫn...’ ở hai câu cuối bài thơ, đặc biệt chữ ‘vẫn’ làm cho ý thơ được khẳng định và ngợi ca tâm hồn trong sáng, tình yêu thủy chung của người phụ nữ Việt Nam:
‘Rắn nát mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son’

III. Kết bài:
- ‘Bánh trôi nước’là một bài thơ Nôm đa nghĩa, nó thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha của Hồ Xuân Hương đối với nền văn hóa dân tộc. Chiếc bánh bình dị của quê hương đã đi vào hồn thơ nữ sĩ và trở thành một bài thơ hay. Nữ sĩ đã dành những lời tốt đẹp ca ngợi bao phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
- Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, vận dụng sáng tạo tục ngữ, cách nói cách cảm của dân gian để tạo nên những vần thơ hàm súc đậm đà mang phong cách Hồ Xuân Hương.