Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Vĩnh Phúc , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 114
Số lượng câu trả lời 14
Điểm GP 4
Điểm SP 13

Người theo dõi (15)

Đang theo dõi (1)

Bùi Thị Vân

Câu trả lời:

Đề 6:

a) Câu mở đoạn: “Đồng bào ta ngày nay rất xứng đúng với tổ tiên ta ngày trước. *

- Câu kết đoạn:

Những cử chỉ cao quý đó {...} lòng nồng nàn yêu nước.

b) Biện pháp liệt kê đã chứng minh rõ luận điểm cơ bản

- Nêu các tầng lớp nhân dân để làm rõ “dân ta”

- Nêu quan hệ uTừ... đến " để nói rõ khái niệm “truyền thống”

a) Đây là lối liệt kê cặp. Việc liên kết này đã tạo nên ý nghĩa cho hai tiếng “kết thành” và tạo nên những đợt sóng càng lúc càng mạnh để lướt qua mọi sự nguy hiểm, nhấn chìm tất cả lũ bán nước vù cưâp nước.

b) Viết đoạn văn có dùng ba lần mô hình “Từ.... đến "

Từ phong trào quyên góp những cuốn sách giáo khoa cho đến việc đóng thùng những bộ quần áo không còn dùng để gửi.

Cấu tạo của cụm c - V này là một câu bị động nhằm đối lập với tinh thần yêu nước “sôi nổi” một cách chủ động.

Các bạn nhỏ ở những vùng xưa kia là căn cứ địa cách mạng, từ những việc thăm nom chăm sóc cho đến xây dựng những căn nhà tình nghĩa với các bà mẹ Việt Nam anh hùng, từ những cuộc hành hương về nguồn đến việc tìm hiểu lịch sử ở nơi địa đạo Củ Chi... Tất cả đó là những biểu hiện của lòng biết ơn theo đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta.

Đề 7:

a) - Câu văn thứ nhất nêu luận điểm:

Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay

- Hai câu sau làm nhiệm vụ giải thích cho luận điểm. Chúng mở đầu bằng:

Nói thế có nghĩa là nói rằng

Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng

b) Khái niệm đẹp của tiếng Việt được tác giả lưu ý:

+ Hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu.

+ Tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu khái niệm hay của tiếng Việt.

+ Có đủ khả năng để diễn đạt tình cảm tư tưởng của người Việt Nam

+ Nó thỏa mãn cho yêu cầu của đời sông văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.

- Thực ra, tác giả không có ý định phân biệt rạch ròi cái đẹp, cái hay mà chỉ nhấn mạnh hai phương diện ấy.

- Cái đẹp và hay của ngôn ngữ tiếng Việt có quan hệ qua lại với nhau. Đã đẹp là phải hay và ngược lại. Cái đẹp của một ngôn ngữ là khả năng gợi cảm xúc, chủ yếu được tạo nên bởi hệ thống ngữ âm, sự hài hòa về thanh điệu và nhịp điệu.

- Cái hay chủ yếu là ở khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm phản ánh đời sống phong phú tinh tế, chính xác.

Câu trả lời:

Đề 6:

a) Câu mở đoạn: “Đồng bào ta ngày nay rất xứng đúng với tổ tiên ta ngày trước. *

- Câu kết đoạn:

Những cử chỉ cao quý đó {...} lòng nồng nàn yêu nước.

b) Biện pháp liệt kê đã chứng minh rõ luận điểm cơ bản

- Nêu các tầng lớp nhân dân để làm rõ “dân ta”

- Nêu quan hệ uTừ... đến " để nói rõ khái niệm “truyền thống”

a) Đây là lối liệt kê cặp. Việc liên kết này đã tạo nên ý nghĩa cho hai tiếng “kết thành” và tạo nên những đợt sóng càng lúc càng mạnh để lướt qua mọi sự nguy hiểm, nhấn chìm tất cả lũ bán nước vù cưâp nước.

b) Viết đoạn văn có dùng ba lần mô hình “Từ.... đến "

Từ phong trào quyên góp những cuốn sách giáo khoa cho đến việc đóng thùng những bộ quần áo không còn dùng để gửi.

Cấu tạo của cụm c - V này là một câu bị động nhằm đối lập với tinh thần yêu nước “sôi nổi” một cách chủ động.

Các bạn nhỏ ở những vùng xưa kia là căn cứ địa cách mạng, từ những việc thăm nom chăm sóc cho đến xây dựng những căn nhà tình nghĩa với các bà mẹ Việt Nam anh hùng, từ những cuộc hành hương về nguồn đến việc tìm hiểu lịch sử ở nơi địa đạo Củ Chi... Tất cả đó là những biểu hiện của lòng biết ơn theo đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta.

Đề 7:

a) - Câu văn thứ nhất nêu luận điểm:

Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay

- Hai câu sau làm nhiệm vụ giải thích cho luận điểm. Chúng mở đầu bằng:

Nói thế có nghĩa là nói rằng

Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng

b) Khái niệm đẹp của tiếng Việt được tác giả lưu ý:

+ Hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu.

+ Tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu khái niệm hay của tiếng Việt.

+ Có đủ khả năng để diễn đạt tình cảm tư tưởng của người Việt Nam

+ Nó thỏa mãn cho yêu cầu của đời sông văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.

- Thực ra, tác giả không có ý định phân biệt rạch ròi cái đẹp, cái hay mà chỉ nhấn mạnh hai phương diện ấy.

- Cái đẹp và hay của ngôn ngữ tiếng Việt có quan hệ qua lại với nhau. Đã đẹp là phải hay và ngược lại. Cái đẹp của một ngôn ngữ là khả năng gợi cảm xúc, chủ yếu được tạo nên bởi hệ thống ngữ âm, sự hài hòa về thanh điệu và nhịp điệu.

- Cái hay chủ yếu là ở khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm phản ánh đời sống phong phú tinh tế, chính xác.