Mở bài
Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Biẻt ba: thi nhân đã gửi lòng mình vào những vần thơ viết về trăng
Bác Hồ – người chiến sĩ — thi sĩ củng viết nhiều về trăng. Trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, trăng lại hiện lên trong thơ Người với vẻ đẹp riêng.
Bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bác đang bị tù trong nhà tù cua bọn Tưởng Giới Thạch tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Tuy sáng tác trong tù nhưng “Ngắm trăng” là bài thơ tứ tuyệt giản dị mà hàm súc, cho thấy tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả trong cảnh ngục tù cực khổ, tối tăm.
Thân bài
Hoàn cảnh, xuất xứ của bài thơ
Tháng 8 – 1942, Bác IIỒ từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quôc tê cho cách mạng Việt Nam. Khi đôn thị trấn Túc Vinh thì Người bị chính quyền địa phương bắt giữ, rồi bị giải tới, giải lui gần 30 nhà giam thuộc 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Bác bị đày đọa, cực khổ hơn một năm trời. Trong những ngày đó, Bác đã viết Nhật kí trong tù bằng chữ Hán. Tập thơ gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt.
Ngắm trăng là bài thơ được rút ra từ tập Nhật kí trong tù của Bác.
Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác
Bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bác đang bị cầm tù: Trong tù không rượu củng không hoa.
Các nhà thơ xưa, gặp cảnh trăng đẹp, thường đem rượu uống trước hoa để thưởng trăng. Có rượu và hoa thì sự thưởng trăng mới thật thú vị. Nghĩa là, các thi nhân xưa ngắm trăng khi tâm hồn thảnh thơi, thư thái.
Bác Hồ lại ngắm trăng trong hoàn cảnh bị giam cầm. Chê độ nhà tù của Tường Giới Thạch vô cùng tàn bạo. Người tù nhân bị đày đọa, cực khổ.
Trước cảnh đêm trăng quá đẹp. Bác bỗng khao khát được thưởng thức trăng một cách trọn vẹn và lấy làm tiếc trăng đẹp như thế mà không có rượu, không có hoa. Câu thơ thứ hai đã diễn tả cái xốn xang, bối rối rất nghệ sĩ của Bác trước cảnh đẹp của đêm trăng:
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Câu thơ cho ta thấy, Bác là một người chiến sĩ cách mạng và cũng là một thi sĩ. Người thi sĩ đã rung động tâm hồn trước vẻ đẹp của trăng dù thân thê đang bị giam cầm trong nhà tù khắc nghiệt, tàn bạo.
Mối giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ với trăng
Hai câu thơ cuối diễn tả thật sâu sắc mối giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ với trăng:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Bác ngắm trăng qua chấn song sắt cửa sổ của nhà tù. Dấu cho song sắt nhà tù chắn ớ giữa thì Bác vẫn thả tâm hồn mình vượt ra ngoài cửa sắt nhà tù đê tìm đến trăng, tức là đê giao hòa với trăng giữa bầu trời tự do.
Trăng vôn là vô tri vô giác mà trước người tù thi sĩ, trăng trở nên một người bạn. Trăng cũng vượt qua song sắt nhà tù để tìm đến ngắm nhà thơ. Vậy là cả người và trăng đều chủ động tìm đôn giao hòa cùng nhau, ngắm nhau say đắm. Trăng trở thành người bạn tri âm, tri kỉ của nhà thơ.
Hai câu thơ cho thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người chiến sĩ – thi sĩ cách mạng. Bên trong song sắt là nhà tù đen tối, là hiện thực tàn bạo, còn ngoài kia là vầng trăng thơ mộng, là thô giới của cái đẹp, là bầu trời tự do, lãng mạn. Song sắt nhà tù có thể giam hãm được thân thể Bác nhưng nó đã bất lực, vô nghĩa trước những tâm hồn tri âm, tri kỉ tìm đến với nhau.
Kết bài
Qua bài thơ, người đọc cảm thấy người tù cách mạng ấy không chút bận tâm đến cảnh nhà tù ngột ngạt, tù túng đôn khủng khiếp. Vượt lên tất cả, tâm hồn nhà thơ bay bổng tìm đôn với vầng trăng tri âm, với thiên nhiên tươi đẹp.
Ngắm trăng thể hiện tình yêu thiên nhiên đặc biệt, sâu sắc và mạnh mẽ của Bác trong hoàn cảnh tù đày.
Ngắm trăng cho thấy sức mạnh to lớn của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Có thể nói, bài thơ đã thể hiện được một tinh thần thép, một phong thái ung dung, vượt hẳn lên sự nặng nề, tàn bạo của ngục tù.
Một lần nữa ta khẳng định: “Ngắm trăng” là bài thơ tứ tuyệt giản dị mà hàm súc, cho thấy tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả trong cảnh ngục tù cực khổ, tối tăm.