Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hưng Yên , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 27
Số lượng câu trả lời 245
Điểm GP 10
Điểm SP 150

Người theo dõi (27)

lê huân
Ác Quỷ Kiss
Việt Tú
Lê Khôi Nguyên

Đang theo dõi (28)


Câu trả lời:

2.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ hiếm hoi trên thi đàn văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm được lưu truyền cho đến ngày nay. Với phong cách sáng tác hiện đại, cá tính, phong khoáng, Hồ Xuân Hương đã khiến người đọc khâm phục tài năng. Bà viết nhiều, viết sâu sắc về phụ nữ Việt nam thời kì phong kiến. Bài thơ “Bánh trôi nước” là một bài thơ ẩn dụ về hình ảnh người phụ nữ.

Bài thơ “Bánh trôi nước’ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tứ thơ cô dọng nhưng có nội dung sâu xa. Có lẽ cũng chính vì thế mà người ta gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm” với những câu thơ hàm súc nhưng ý kiến quá sắc sảo.

Hồ Xuân Hương đã lựa chọn “bánh trôi nước” làm hình ảnh trung tâm, biểu tượng cho người phụ nữ Việt nam trong xã hội phong kiến:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Chỉ với 1 câu thơ nhưng Hồ Xuân Hương đã miêu tả quá chi tiết hình dáng, màu sắc của chiếc bánh trôi. Bánh trôi là loại bánh dân dã, gắn liền với đời sống của nhân dân. Tác giả đã dùng từ “thân em” để chỉ chiếc bánh trôi có chăng là ẩn dụ về chính bản thân mình. Có rất nhiều cách để viết hay, viết đẹp hơn nữa nhưng Hồ Xuân hương lại chọn cách viết thật, viết đúng, viết sâu như thế này. “Vừa trắng lại vừa tròn” không phải là chuẩn mực của cái đẹp nhưng lại rất phúc hậu. Chiếc bánh trôi trắng và tròn cũng giống như hình dáng của người phụ nữ hiền lành, " khuôn trăng đầy đặn ", điềm đạm và khỏe mạnh.

Đến câu thơ thứ 2 là quá trình nấu bánh:

Bảy nổi ba chìm với nước non

Câu thơ đã khái quát được đầy đủ cách nấu chín bánh trôi trong dân gian. Nhưng hai từ “nổi” và ‘chìm’ dường như gợi nhắc sự bếp bênh, trôi nổi vô định của chiếc bánh trôi, hay của chính cuộc đời người phụ nữ. Số từ “ba, bày’ để ám chỉ nhưng sóng gió, những long đong, lận đận mà người phụ nữ phải trải qua.

Xã hội phong kiến đầy áp bức, bóc lột, hành hạ người phụ nữ đến thê thảm. Họ thấp cổ bé họng nên không dám kêu ai, không dám than ai vì có ai thấu, có ai hiểu đâu.

Câu thơ thứ 3 dường như là sư phó mặc vào người làm bánh, hay chính là phó mặc cho xã hội đầy bất công;

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Phụ nữ sống trong thời kì phong kiến luôn lép vế, phải cam chịu và đầu hàng số phận. kệ người ta xô, mặc người ta đẩy mà không dám ké răng nửa lời. Họ không dám đấu tranh, không dám đòi công bằng. Từ “mặc” trong câu thơ như khẳng định một sự phó mặc đến não nề, và còn thấp thoáng sự bất cần. Vậy nhưng đọc câu thơ này, chúng ta vẫn nhận ra được một chút chống cự qua từ “mặc” nhưng nó không quá nổi bật. Chỉ là Hồ Xuân Hương là người phụ nữ không chịu khuất phục nên thơ bà cũng không chịu khuất phục như vậy.

Mặc dù bị chà đẹp, bóc lột nhưng tâm hồn người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn son sắt

Mà em vẫn giữ tâm lòng son

Dẫu cho cuộc đời nghiệt ngã, bạc bẽo và bất công như thế nào thì sự son sắt và thủy chung của người phụ nữ vẫn luôn là phẩm chât cao đẹp, đáng trân trọng. Hồ Xuân hương đã khám phá ra một nét đẹp hiếm thấy của phụ nữ Việt Nam. Tâm hồn thanh khiết, tấm lòng son không hề bị vướng bận.

Hồ Xuân Hương với sự tài tình trong ngôn ngữ và đặc biệt lối nói ẩn dụ độc đáo đã vén màn cho người đọc thấy xã hội phong kiến nhiều bất công, thối nát. Người phụ nữ phải chịu sự đè nén nhưng vẫn giữ được trái tim thủy chung, son sắt.

Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với đôi mắt và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hoá sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nào là: Nữ nhân ngoại tộc.

Rồi luật Tam tòng cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn.

Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.

Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.

Bài Thương vợ của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt.

Bà Tú vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Quanh năm lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà nuôi ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của phụ nữ thời xưa.

Nhà thơ Trần Tế Xương từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Thế nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!

Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa; lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.

Ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Nhà thơ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.

Hồ Xuân Hương là một thi sĩ tài hoa bậc nhất trong nền văn học cổ Việt Nam. Thơ bà ẩn sau những tiếng cười tưởng chừng như tinh nghịch, châm biếm lại chứa chan niềm cảm thông, xót xa cho số phận người phụ nữ. Đây là vấn đề mà trước bà rất nhiều nhà thơ đã nói đến, nhưng với Hồ Xuân Hương cái nhìn về phụ nữ có phần mới hơn, sâu sắc hơn và mang tính thời đại hơn. Vấn đề này thể hiện rõ trong bài Bánh trôi nước:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Bài thơ này bà đã tả thực chiếc bánh trôi. Nguyên liệu làm bánh là bột nếp trắng mịn, xay nhuyễn, nặn tròn trịa đẹp mắt. Quá trình luộc bánh chìm nổi trong nước sôi lửa bỏng. Bánh tròn hay méo, rắn hay nát là do tay người làm bánh. Dẫu thế nào bánh vẫn giữ nguyên màu đỏ của nhân bánh. Quá trình làm bánh trôi theo lời tả của Hồ Xuân Hương là thực tế. Thông qua việc tả thực đưa đến cho người đọc sự liên tưởng đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu kết hợp nghệ thuật ẩn dụ so sánh ngầm đặc sắc kín đáo. Hồ Xuân Hương đã thốt lên hai tiếng thân em gợi cho ta nhớ đến những câu ca dao quen thuộc:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Hay:

Thân em như hạt mưa xa

Hạt vào đài các hạt ra ngoài đồng

Đây chính là những câu hát than thân, trách phận của người phụ nữ Việt Nam xưa, nhưng những từ trắng, tròn gợi sự tự hào, kiêu hãnh về vẻ đẹp hình thể của họ. Ta chờ đợi hạnh phúc đến với họ nhưng tiếc thay:

Bảy nổi ba chìm với nước non

Lẽ ra với vẻ đẹp nhan sắc như thế người phụ nữ phải được sống sung sướng hạnh phúc, trái lại họ gặp nhiều bất hạnh, tai hoạ, sóng gió của cuộc đời, họ long đong lận đận chìm nổi giữa cuộc đời.

Càng đau khổ hơn khi:

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Cuộc đời mình ra sao, số phận như thế nào là do người khác định đoạt “nhào nặn”. Người phụ nữ không tự quyết định được số phận của mình. Chế độ phong kiến nam tôn nữ ti, nam quyển độc tôn, người phụ nữ phải phó thác cuộc đời cho xã hội, cho nam giới. Xã hội thật bất công họ không có chút quyền hạn gì, địa vị gì trong gia đình và xã hội.

Trước Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ đã từng đặt ra vấn đề về người phụ nữ. Trong Chuyện người con gái Nam Xương – Vũ Nương đức hạnh nết na thuỷ chung mà cuộc đời nàng quá ngắn ngủi. Người đẩy nàng vào chỗ chết chính là người chồng – người từng gắn bó máu thịt với cuộc đời nàng. Do đa nghi, ghen tuông, gia trưởng, người chồng đã dẫn đến nỗi oan uổng của Vũ Nương.

Thơ Hồ Xuân Hương viết nhiều về người phụ nữ nhưng những người phụ nữ trong các bài thơ của bà không phải là những người phụ nữ đài các “tầng lớp trên”. Họ là những người phụ nữ bình dân:

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi

Suốt đời lăn lóc đám cỏ hôi

Vì vậy khi nhìn vẻ đẹp của họ ta phải chú ý đến vẻ đẹp bên trong chớ nên chỉ chú ý đến hình thể bề ngoài:

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Nỗi đau của người phụ nữ ở đây là không có cách nào tự vệ chống trả. Tuy nhiên dẫu cho xã hội có xoay chuyển xô đẩy ra sao thì em vẫn giữ tấm lòng son. Bất chấp hoàn cảnh họ kiên trinh giữ lấy tấm lòng trinh trắng, thuỷ chung, vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp khoe khoắn, bình dân, hồn nhiên…

Mặc dầu xã hội xô đẩy vùi dập nhưng người phụ nữ vẫn ngẩng cao đầu tuyên chiến với cuộc đời, vượt lên không chịu sa lầy trong vũng bùn nhơ của cuộc đời, giữ lấy giá trị chân chính của mình. Người phụ nữ rất có ý thức về mình, luôn sống với tình nghĩa, không chịu lép vế trước nam giới.

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu

(Đề đền Sầm Nghi Đống)

Cuộc đời Hồ Xuân Hương chịu nhiều cay đắng, bất hạnh, làm lẽ Tổng Cóc, làm lẽ Phủ Vĩnh Tường… Bà thay lời những người phụ nữ cất lên tiếng nói phản kháng cái kiếp chồng chung đầy nghịch lý:

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Tóm lại bài thơ Bánh trôi nước có ý nghĩa khái quát như một lời tổng kết về nhân cách và số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Người phụ nữ trong bài thơ này có phẩm chất cao đẹp, đức hạnh thuỷ chung nhưng không được trân trọng. Do địa vị phụ thuộc, cuộc đời bảy nổi ba chìm lăn lóc. Hồ Xuân Hương đã xoáy sâu vào tận ngõ ngách của cuộc đời để nêu lên tấn bi kịch của người phụ nữ. Nhưng dẫu thế nào họ vẫn sống đẹp, sống chân chính để bảo toàn phẩm giá của mình. Lời thơ của bà cũng là lời thơ của cả một kiếp người đòi “tự do”.

Bài thơ Bánh trôi nước nhà thơ đã đặt ra vấn đề người phụ nữ, một vấn đề nhức nhối mà không ít nhà thơ nhà văn đã nói đến. Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu đã từng dề cập. Có lẽ vấn đề này không riêng gì ai mà tất cả chúng ta, cả xã hội hãy đấu tranh vì sự bình đẳng của phụ nữ.

Câu trả lời:

Trong con đường học tập, một thứ không thể thiếu đối với mỗi con người đó chính là sách vở.

Nếu con đường học tập là chiến trường thì sách vở chính là vũ khí. Vì vậy, sách vở rất quan trọng. Bạn hãy thử nghĩ mà xem, bạn ra chiến trường trên tay không một thứ vũ khi nào thử hỏi bạn có thể chiến đấu không? Sách vở không chỉ rất quan trọng mà nhu cầu về sách vở của mỗi con người càng ngày càng cao. Nhất là sách. Sách mang đến cho chúng ta những kiến thức cơ bản, những kiến thức mở rộng để chúng ta có thể đến gần được với tri thức hơn. Sách có rất nhiều loại: Sách giáo khoa, sách tham khảo, tiểu thuyết, truyện đọc,.. Sách giáo khoa là loại sách cơ bản nhất mà ai cũng được học. Kiến thức trong sách là kiến thức bắt buộc ai cũng phải hiểu và phải nhớ để vận dụng cho đời sống bên ngoài. Nếu các bạn muốn tìm hiểu về kiến thức bạn có thể đọc sách tham khảo. Sách tham khảo lại có rất nhiều loại: Sách về tự nhiên, sách về khoa học… để bạn có thể tìm được quyển sách đáp ứng nhu cầu học hỏi của bạn

Phát biểu cảm nghĩ của em về sách vở hàng ngày

Sách còn giúp con người giải trí. Những câu chuyện cười, những bộ tiểu thuyết,… sẽ giúp đầu óc bạn thanh thản hơn, giúp bạn qua đi mệt mỏi của mình.

Sách còn dạy bạn kinh nghiệm sống. Những quyển sách dạy nấu ăn, dạy cắm hoa, dậy cách làm thế nào để có mái tóc đẹp… sẽ giúp bạn có kinh nghiệm hơn trong cuộc sống.

Sách rất đa dạng. Sách giúp con người ta hướng thiện. Sách luôn luôn đáp ứng mọi nhu cầu của bạn ở mọi lúc, mọi nơi. Sách giúp con người có thể đên với thành công, đến với đỉnh cao của tri thức.

Vở cũng quan trọng không kém. Vở cũng là hành trang không thể thiếu trên hành trình học tập của học sinh. Vở giúp bạn ghi chép, tóm tắt lại những ý có trong sách. Người ta thường có câu: “Học đi đôi với hành”. Bạn không thể học mà không thực hành được. Và vở sẽ giúp bạn thực hiện được điều đó.

Ôi, bạn hãy thử tưởng tượng mà xem, nếu trên đời này không có sách vở thì sẽ ra sao? Thế giới này sẽ chỉ toàn những người vô học, sẽ chỉ toàn là màu đen, màu đen của sự mù chữ.

Các bạn ơi, chúng ta hãy dang rộng vòng tay đón chào sách vở nhé!

Câu trả lời:

Trong cuộc đời học sinh của mỗi người, ai cũng lưu giữ trong mình một hình ảnh đẹp đẽ, đáng trân trọng về một người thầy hoặc người cô mà mình yêu mến. Riêng với em, em còn nhớ mãi và sẽ chẳng thể nào quên được cô giáo chủ nhiệm lớp 4 của em. Cô đã để lại trong em niềm yêu mến và kính trọng vô bờ. Cô là cô giáo chủ nhiệm và cũng là giáo viên dạy Văn lớp em khi đó. Cô có dáng vẻ gầy gầy, xương xương và lặng lẽ của một người hay suy nghĩ trăn trở và từng trải. Cô có nước da trắng, gương mặt thanh thoát và đôi mắt trầm tĩnh lạ kì. Khi đến trường, cô thường mặc chiếc váy hoa màu đỏ đậm. Mùa đông thì mặc thêm một chiếc áo khoác lông thú. Hình ảnh cô hiện lên trong mắt chúng em thật gần gũi và giản dị biết mấy.
Là giáo viên chủ nhiệm, cô quan tâm đến chúng em hết.Cô hay chuyện trò với cán bộ lớp để nắm bắt tình hình học sinh. Cô còn trực tiếp trao đổi với những bạn học sinh cá biệt để tìm hiểu điều kiện riêng của mỗi người rồi khuyên nhủ, dặn dò động viên các bạn ấy nữa. Điều dặc biệt là cô để chúng em tự do sáng tạo trong giờ sinh hoạt lớp của mình. Trước đó, các bạn cán bộ lớp được thầy hướng dẫn tận tình là sẽ phải xây dựng chương trình ra sao, điều khiển lớp thế nào... thầy chỉ ngồi dự và góp ý kiến thôi. Nhờ sự hướng dẫn và quản lí lớp như vậy của cô mà chúng em rất tự giác thực hiện nội quy của nhà trường. Chúng em chỉ bị bờ ngỡ với ngôi trường mới trong thời gian rất ngắn, sau ít lâu tất cả đã hòa nhập được và có kết quả học tập rất tốt.

Giờ Văn của cô mới thực sự là một thiên đường đối với đám nhỏ chúng em ngày ấy. Dáng vẻ lặng lẽ hàng ngày của cô bỗng dưng mất hẳn chả còn một giáo viên say sưa, mê mải với những lời giảng thấm thía, sâu sắc của mình. Những ngày đầu, chúng em cứ lặng mình ngồi nghe rồi ngồi... ngắm cô mà quên không ghi bài. Bất chợt thầy dừng lại hỏi: “Sao các em không ghi bài?” thì cả lớp như choàng tỉnh khỏi cơn mơ. Lời giảng của cô giàu hình ảnh, hấp dẫn và sống động vô cùng. Có một lần, thầy nói cho chung em nghe về tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Sau lần ấy, chẳng hiểu sao, mỗi khi nhắc đến cô chúng em lại thấy thầy giống nhân vật Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản trong tác phẩm ấy lạ kì!

Cô giáo đã đặt cho chúng em những nền tảng đầu tiên vững chắc- khi chúng em mới chập chững bước vào cổng trường cấp hai đầy mới lạ. Lên đến lớp 7, chúng em không còn được cô dìu dắt nữa nhưng em sẽ mãi nhớ về cô với một niềm kính yêu và biết ơn vô bờ.

Câu trả lời:

“Bước chân đi qua trên cát để lại dấu

Người thầy đi qua đời ta để lại ký ức thẳm sâu”

Thật vậy! Mỗi người thầy chính là một tấm gương sáng để chúng ta soi rọi và noi theo. Có những người thầy hóm hỉnh, cũng những cô giáo gần gũi, thân thương và hình như thầy cô nào cũng có một tấm lòng bao dung và nhân ái. Tôi rất may mắn được học với nhiều thầy cô đáng kính, nhưng hết hết, cô Trang dạy môn Ngữ văn chính là cô giáo để lại trong tôi nhiều ký ức khó phai. Vẫn còn nhớ ngày đầu tiên cô bước vào lớp. Dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt trái xoan, cô mặc chiếc áo dài hồng phấn điểm tô vài bông hoa đỏ thắm, quả thật qua chiếc áo dài cũng có thể thấy rõ sự tinh tế trong thẩm mỹ của cô giáo dạy văn. Cô có một giọng nói dịu dàng, từ tốn. Hôm gặp lớp, cô giới thiệu một cách hóm hỉnh rằng tên của cô lấy họ bỏ dấu sẽ ra ngay. Thế là cả lớp đoán già, đoán non, nào là cô họ Nguyễn tên Nguyên, nào là họ Lý tên Ly… thậm chí có nhiều bạn còn gợi ra nhiều cái tên độc đáo hơn khiến cả lớp cười vang. Cuối cùng cô giới thiệu rằng cô họ Trần tên Trân. Quả thật cái tên đúng với dáng người, nhỏ nhắn, dễ gần và chân thành, tình cảm. Được cô chủ nhiệm, lớp tôi như có được người mẹ thứ hai. Ngày nào cũng vậy, đúng sáu giờ rưỡi là cô có mặt trước lớp, nhắc nhở trực nhật, sắp xếp bàn ghế, hướng dẫn các bạn ôn bài, truy bài, làm bài tập. Cứ đều đặn ngày nào cũng thế, có những hôm cô đi hội nghị, tập huấn không vào được, lớp học như trống trải rất nhiều. Giọng nói dịu dàng của cô như những khúc hát chuyển tải kiến thức đến với học sinh. Mỗi giờ học của cô đều đầy ắp những tiếng cười. Đó là tiếng cười của sự hài hước, hóm hỉnh mà cô hay tạo nên để tiết học không buồn chán. Từ khi cô đứng lớp, môn văn không còn là nỗi sợ hãi, buồn chán nữa mà chúng tôi đều trông đợi mỗi tiết văn. Cô không dạy kiến thức sâu xa mà giúp chúng tôi tìm thấy kiến thức ngay bên cạnh mình và khai thác được các thế mạnh của bản thân. Trong giờ học của cô, chúng tôi được xem kịch, xem phim, được thuyết trình và thể hiện ý kiến của riêng mình, được nói lên suy nghĩ của mình mà không sợ bị la rầy vì sai kiến thức. Cô luôn dành tình yêu thương đến học sinh. Năm nào cũng vậy, cứ đầu năm là mọi người lại thấy cô tất tả đi khắp các cửa hàng văn phòng phẩm để vận động tập sách về hỗ trợ cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Cô còn vận động các bạn trong lớp chia sẻ những bộ sách cũ với những em học sinh khóa sau, để các em không phải lo lắng vì thiếu sách đến trường. Mỗi khi cô nghe bạn nào không đến lớp được vì hoàn cảnh khó khăn, cô tìm đến tận nhà để động viên, an ủi. Cô dạy chúng tôi rằng mỗi người chúng ta chính là một bông hoa nhỏ, hãy để sắc hương của mình làm đẹp cho cuộc đời. Muốn được vậy, chúng ta chỉ cần làm nhiều việc tốt thì sắc hoa càng lung linh hơn. Mỗi lời dạy của cô luôn khắc sâu trong trái tim chúng tôi. Người ta nói “cô giáo như mẹ hiền” còn đối với chúng tôi, cô như người bạn thân thương, cùng chia sẻ buồn vui trong cuộc sống. Cô không chỉ dạy chúng tôi chữ nghĩa mà còn dạy cách sống, cách làm người. Thời gian sẽ trôi qua nhưng ký ức về cô giáo dạy văn nhỏ nhắn nhưng nghị lực mạnh mẽ và tâm hồn giàu lòng nhân ái sẽ mãi mãi còn lại với chúng tôi. Mỗi ngày đến lớp, qua những bài học ý nghĩa từ cô, chúng tôi như được bước thêm một bước để tự thấy mình nhỏ bé và cố gắng hoàn thiện mình hơn.

Câu trả lời:

“Sinh em ra trên đời, bố mẹ đặt tên: Hồng Giang.Một dòng sông màu hồng mơ mộng.Giữa vạn vật và muôn sắc màu cùa trời đất cao rộng.Mong cho emmột hạnh phúc tươi hồng’’Đỗ Hồng Giang là tên mà ba mẹ đặt cho lúc em mới ra đời. Nhưng mọi người trong nhà vẫn quen gọi em là Bé Còi. Cái tên đó xem ra rất hợp với thân hình nhỏ nhắn và nói đúng hơn là còi cọc của em. Ăn rất khoẻ nhưng em nghịch cũng dữ nên mẹ bảo em không thể lớn được. Tuy là con gái nhưng em nghịch như tụi con trai. Mỗi buổi chiều đi học về em thường cùng tụi thằng Sơn, thằng Phúc xách chai đi đổ dế. Hôm nào chán tụi em lại rủ nhau đi đánh đáo, đánh khẳng. Trong nhà em toàn bi, ảnh, quay, không thể kiếm đâu ra một con búp bê hay một bộ đồ hàng cả. Ba thường vừa cười vừa trêu em “đáng lẽ Bé Còi nhà ta phải là con trai mới đúng”. Những lúc như thế em thường đỏ mặt bỏ chạy. Nghịch ngợm là vậy nhưng em cũng chăm học lắm nhé! Ở lớp Bé Còi toàn đứng đầu thôi. Năm ngoái em còn được nhà trường cử đi thi học sinh giỏi môn Toán nữa đấy. Mơ ước lớn nhất của em là được trở thành phi công, lái những chiếc máy bay thật lớn, thật to bay lên bầu trời cao vàtrong xanh trên kia.Em tin chắc rằng mình sẽ thực hiện được ước mơ đó.

<h2 justify;\"="" >