Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Bắc Giang , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 7
Số lượng câu trả lời 123
Điểm GP 6
Điểm SP 190

Người theo dõi (14)

Đang theo dõi (5)


Câu trả lời:

Chiều dần buông theo áng mây trôi hững hờ. Những người lái đò bên con sông kia vẫn luôn miệt mài, cặm cụi chở những đợt khách cuối cùng sang sông. Mồ hôi họ đã rơi trên tấm ván đò cũ kĩ. Cuộc sống quá bận rộn, có quá nhiều việc phải lo làm tôi không có thời gian suy nghĩ quá nhiều, quan tâm đến những người xung quanh. Giờ ngồi một mình, nhìn cô lái đò má ửng hồng, như đâu đây hình ảnh của thầy cô đã dạy tôi. Tóc thầy bạc vì bụi phấn, mắt cô đã thâm quầng vì những đêm mất ngủ, như người lái đó chở khách sang sông, từng thế hệ này đến thế hệ khác, đưa chúng tôi- thế hệ trẻ cập bến tương lai, đi đến những chân trời rộng mở, mở ra cả hòai bão, ước mơ cho chúng tôi. Cuộc đời thầy đưa biết bao nguời qua dòng sông tri thức.Dòng sông vẫn cứ êm trôi... Tóc thầy bạc đi, mắt thầy nheo lại nhưng vẫn luôn vững tay chèo và hết lòng vì thế hệ trẻ. Bao nhiêu người khách đã sang sông ? Bao nhiêu khát vọng đã vào bờ ? Bao nhiêu ước mơ thành sự thực.. ? Có mấy ai sang bờ biết ngoái đầu nhìn lại thầy ơi...Thầy cô đã chắp cánh cho những ước mơ của chúng ta bay cao, cung cấp hành trang kiến thức chp chúng ta bước vào đời và giúp chúng ta thành công trên con đường học vấn. Thế mà, có ai lần tìm về lớp cũ trường xưa để thăm lại những người đã hy sinh tâm huyết giúp chúng ta thành người hữu ích? Có ai nhớ chăng bao kỉ niệm êm đềm thấm đượm tình thầy trò? Nói đến đây, tôi bùi ngùi nhớ lại ngày xưa năm ấy, cách đây ba năm... Hôm ấy, trời mưa tầm tã, lại vào mùa giá rét. Mẹ rước trễ nên tôi đứng đợi một mình với nỗi lạnh buốt. Chờ hòai chẳng thấy mẹ đến, tôi bắt đầu tuyệt vọng. Giữa lúc ấy, một bóng áo mưa từ cổng trường lao về phía tôi. Hóa ra là thầy chủ nhiệm. Thầy đưa cho tôi cái áo mưa và đề nghị chở tôi về. Tôi vừa mừng, vừa băn khoăn vì nhà xa. Phút chốc thầy đã chở tôi ra đường, gò tấm lưng gầy vượt băng băng về phía trước. Đến nhà, tôi thấy mặt thầy tái lại, môi tím rung rung. Không màng tới sự giá buốt. Đã có bố tôi ở nhà, nên thầy cũng yên tâm. Mưa chưa dứt, thầy hối hả ra về. Tôi nhìn theo mà lòng đầy cảm động. Dù có khôn lớn vào đời, mãi mãi tôi khắc ghi kỉ niệm này và hình ảnh thầy, tấm lòng thầy thật cao cả biết bao! Một dòng đời - một dòng sôngMấy ai là kẻ đứng trông bến bờMuốn qua sông phải có đò . Đường đời muốn bước phải nhờ người đưa ... Có ai đó đã ví người thầy như người chèo đò và cô cậu học sinh là khách qua sông. Khách qua sông rồi, con đò vẫn như say sưa miệt mài giữa đôi bờ đưa bao thế hệ đi ngang dòng sông tri thức. Còn gì vui hơn đối với những người thầy khi học trò của mình lần lượt trưởng thành ra đời, nhường bước cho những chú chim non mới. Còn gì vui hơn khi những khách qua sông đã nhớ dòng sông bến đò xưa và cả người chèo đò lặng lẽ. Thầy ơi, mặc cho cuộc sống bôn ba, thầy vẫn một đời chèo đò đưa từng lớp học sinh qua bến bờ tri thức. Ngày lại ngày, thầy cặm cụi nắm vững tay chèo, chỉ sợ học sinh của mình lạc lối trên đường đời có lắm bão táp, chông gai. Ánh nắng mặt trời cuối ngày rồi sẽ tắt, dòng sông đến nơi con đập sẽ tự mình rẽ sang một hướng khác. Nhưng việc dạy người làm sao rẽ được, gắn bó đời bằng một lối đi chung. Cao cả thay tấm lòng nhà giáo, lặn lội chở người qua bão táp phong ba cập bờ hạnh phúc. Đến nơi rồi một nụ cười đọng mãi. lặng lẽ quay về lái tiếp chuyến đò sau.Chuyện một con đò dầm dãi nắng mưa Lặng lẽ chở từng dòng người xuôi ngượcKhách sang sông tiếp hành trình phía trước Có ai nhớ chăng hình ảnh con đò ? Suy cho cùng, sự hi sinh của mỗi thầy cô giáo là qui luật muôn đời. Làm nhà giáo phải quên mình đi để nghĩ nhiều đến người khác. Là làm bãi cát dài nâng mình cho những con sóng, con sóng sau đùa đi con sóng trước xóa sạch dấu vết cưu mang, nhưng bãi cát vẫn nằm đó nhớ hoài những con sóng đã đi qua. Thầy cô giáo là người chèo đò, đưa khách sang sông, con đò về bến cũ. Người khách xưa biết bao giờ trở lại, có nhớ con đò và lần qua bến ấy - sang sông! Câu chuyện năm xưa nhưng mãi đến bây giờ. Con mới hiểu, thầy ơi – người đưa đò vĩ đại. Con đến với cuộc đời từ sự hy sinh thầm lặng ấy. Trên chuyến đò của thầy chở nặng yêu thương Làm nhà giáo chỉ cho mà không bận lòng nghĩ đến nhận, là con ong chăm chỉ xây tổ gom mật cho đời, là cây thân mộc vươn mình trong nắng gió tỏa bóng mát cho người, là kiếp con tằm đến chết còn vương tơ... Ôi! Biết nói sao cho hết nỗi niềm! Chỉ đến khi lớn khôn, bầy học trò nhỏ hôm nay mới hiểu được tình cảm của thầy cô dành cho chúng. Thầy ơi!

Câu trả lời:

1 )

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời

Như sông như núi, như người Việt Nam

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trưức cảnh tình quê hương..

Phân tích bài thơ rồi, em hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình cảm của một nhà thơ nữ trong xã hội thời xưa, giúp em thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Em cảm thấy vững vàng trong tư tưởng và có những suy nghĩ tích cực hơn góp phần xây dựng quê hương đất nước Việt Nam thêm giàu đẹp, để giữ mãi được những dấu tích mà người xưa để lại như gửi gắm, nhắc nhở và trao gởi cho chúng em.

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần "a" như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người,nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

2 )

Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc Bọn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp chân thành.

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa

Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

Đầu trò tiếp khách, trầu không có

Bác đến chơi đây, ta với ta.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ.

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

Câu thơ mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp nhau. Tuổi già thường cảm thấy cô đơn nên người ta khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Vì vậy khi có bạn đến thăm thì quá đỗi vui mừng. Cách xưng hô thân mật bằng bác, cách gọi thân mật dân dã gợi sự nể trọng cũng như thân tình thể hiện sự gắn bó trọng tình giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hàng ngày: đã lâu rồi nay có dịp bác đến chơi nhà, thật là vui quá. Tôi, bác chẳng xa lạ gì thôi thì mong bác thông cảm cho! Ngày còn ở chốn quan trường việc có bạn tới thăm là lẽ thường nhưng giờ ông đã từ quan, có bạn đến tận nhà thăm thì hẳn phải là thân thiết lắm bởi thói đời: giàu thời tìm đến, khó thời lui. Vui sướng, xúc động nhà thơ đã lấy sự sung túc, giàu có của tình bạn thay vào cái túng thiếu về vật chất để tiếp bạn.

Thông thường theo phép tắc xã giao khi bạn đến nhà dù là thân hay sơ thì trước hết trầu nước sau là cơm rượu đãi bạn. Nhưng sau lời chào bạn Nguyễn Khuyến nhắc đến một loạt những khó khăn của gia đình:

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa

Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

Nhà thơ như đang phân trần với bạn về sự tiếp đãi chưa chu đáo của mình.

Phần thực, luận tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói. Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân. Có ao và có cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng ... Bức tranh vườn hiện lên sống động vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp cây đời và tình người. Ta cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn mình ra thăm vườn cây, ao cá và hơn thế mong bạn cảm thông với cuộc sống của mình chăng?

Các từ sâu, cả, rộng, thưa các trạng từ chỉ tình trạng khôn, khó các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động chửa, mới, vừa, đương hô ứng bổ trợ cho nhau một cách thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ này biểu hiện một cuộc sống dung dị, tự nhiên gần gũi đáng yêu.

Dân gian có câu:

Đầu trò tiếp khách, trầu không có

Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại đến mức ấy ư? Nhà thơ đã cường điệu hoá cái nghèo của mình. Một ông quan to triều Nguyễn về ở ẩn, với một cơ ngơi chín sào tư thố là nơi ở thì không thể “miếng trầu” cũng không có. Rõ ràng đây là lời bông đùa hóm hỉnh với bạn. Đồng thời để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của giặc Pháp, lui về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương.

Những vật chất bình thường nhất mang ra tiếp bạn đều không có, mà thay vào đó là tình cảm chân thành tha thiết. Tình bạn của họ được vun đắp, dựng xây trên cơ sở của tình cảm, lòng yêu thương kính trọng. Vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Thật xúc động khi đọc nhưng dòng thơ thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến với bạn:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Bác với tôi hôm sớm cùng nhau...

Tình cảm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật cảm động, họ tri kỷ tri âm với nhau cũng xuất phát từ đó. Đúng vậy, trong bài thơ này những nghi thức xã giao vật chất dần bị bóc để lộ ra hạt ngọc lung linh - ấy là tâm hồn, tình cảm cao quý của họ.

Bác đến chơi đây, ta với ta

Câu kết là sự “bùng nổ” ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị mà chỉ cần có một tấm lòng.

Lần thứ hai chữ bác xuất hiện, bác không quản ngại đường xá xa xôi đến thăm bạn thì thật đáng quý. Tình bạn là trên hết, không gì mua được. Mong tiếp bạn bằng những thứ thật sang, thật bất ngờ nhưng rồi chỉ có ta với ta. Họ hiểu nhau, họ tuy hai nhưng là một, cái đồng điệu ấy chính là sự xem thường vật chất, trọng tình cảm, trọng tình bằng hữu.

Tôi và bác chỉ cần gặp nhau để trò chuyện tâm sự là đã đủ. Tình cảm của họ bộc lộ một cách trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng.

Ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ta với ta trong bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn, hai con người.

Có một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về bạn khi đọc ta mới thấy hết được ý vị của nó:

Từ trước bảng vàng nhà có sẵn

Chẳng qua trong bác với ngoài tôi

(Gửi bác Châu Cầu)

Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa nay.

Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.

3 )

trong bài qua đèo ngang cụm từ ta vs ta biểu hiện nỗi cô đơn sâu sắc của nhà thơ mag 1 nỗi niềm riêng . một mảnh tình riêng giữa cảnh trời cao đất rộng , trước thiên nhiên hoang sơ , vắng vẻ . ta ở đây chỉ 1 người chỉ chủ thể . còn ta vs ta trog bài kia thì là sự đồng cảm đồng điệu của 2 người bạn , ta trog câu thơ này cũng là mình cũng là bạn

* giống nhau : đều kết thúc = cụm từ ta vs ta , đều trực tiếp thể hiện cảm xúc , tâm trạng của chủ thể trữ tình

* khác nhau : trog bài của nguyễn khuyeesnn

+ ta : chỉ tác giả ( nguyễn khuyến )

+ ta : chỉ khách ( bạn )

quan hệ gắn bó hòa hợp , chỉ 2 người nhưng thể hiện sự đồng nhất trọn vẹn giữa chủ vs khách

trog bài kia

+ ta : đều chỉ tác giả ( bà huyện )

tâm trạng bùn , cô đơn , chỉ 1 người , 1 tâm trạng

Câu trả lời:

Việt Nam (tên chính thức: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là một quốc gia nằm ở phía đông, giáp với Lào và Campuchia, thuộc bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á thuộc châu Á.

Phía bắc Việt Nam giáp với Trung Quốc, phía tây Việt Nam giáp với Lào và Campuchia, phía tây nam giáp vịnh Thái Lan, phía đông và phía nam giáp biển Đông và có hơn 4.000 hòn đảo,[7] bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng trên 1 triệu km²). Trên biển Đông có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng đang trong vòng tranh chấp với các quốc gia Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia và Philippines.

Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao với 178 quốc gia, quan hệ kinh tế – thương mại – đầu tư với trên 224 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên Liên Hợp Quốc, ASEAN, ASEM, APEC, WTO, Tổ chức quốc tế Pháp ngữ, Phong trào không liên kết, UNESCO và nhiều tổ chức quốc tế, khu vực khác.[8] Kể từ năm 2000 Việt Nam là một trong những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới,[9] tuy nhiên tốc độ tăng trưởng chậm lại trong những năm sau. Việc đổi mới kinh tế thành công đã dẫn đường cho Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực cải cách kinh tế – xã hội, Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều vấn đề tiêu cực như tỷ lệ hộ nghèo còn cao, bất bình đẳng về thu nhập cao, dịch vụ chăm sóc sức khỏe kém và tình trạng bất bình đẳng giới tính còn nhiều. [10][11][12]

"Việt Nam" (chữ Hán: 越南) chính thức trở thành quốc hiệu của Việt Nam lần đầu tiên sau khi nhà Nguyễn (Việt Nam) được nhà Thanh (Trung Quốc) ban cho làm quốc hiệu.[13] Năm Gia Long nguyên niên (Tây lịch năm 1802) vua Gia Long cho người mang quốc thư và cống vật sang Trung Quốc xin nhà Thanh cho đổi quốc hiệu thành "Nam Việt" 南越 và phong hiệu cho vua Gia Long. Nhà Thanh không đồng ý cho An Nam đổi quốc hiệu thành Nam Việt vì nước Nam Việt có cương vực rộng lớn, bao gồm cả hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc, An Nam thì chỉ nằm trên đất Giao Chỉ. Nhà Thanh đảo ngược tên "Nam Việt" 南越 thành "Việt Nam" 越南, ban cho triều Nguyễn lấy làm quốc hiệu. Chữ "Việt" 越 đặt ở đầu biểu thị đất Việt Thường, cương vực cũ của nước này, nước này trước đây chỉ có đất Việt Thường. Chữ "nam" 南 đặt ở cuối thể hiện đất An Nam, cương vực sau này của nước này. Đặt quốc hiệu là "Việt Nam" 越南 vẫn có hai chữ "nam việt" 南越 trong tên mà lại không nhầm lẫn với nước Nam Việt, lại thể hiện được vị trí địa lý của nước này là nằm ở phía nam Bách Việt. Năm Gia Long thứ ba (Tây lịch năm 1804), vua Gia Khánh nhà Thanh cho án sát sứ Quảng Tây Tề Bố Sâm (齊布森) sang tuyên phong Gia Long làm "Việt Nam quốc vương" 越南國王.[13][14]

Quốc danh "Việt Nam" được chính thức sử dụng lần đầu dưới thời vua Gia Long từ năm 1804 đến 1813.[15] Tên gọi này sau đó xuất hiện trong tác phẩm Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu năm 1905, và sau đó được sử dụng bởi Việt Nam Quốc dân Đảng.[16] Thời Pháp thuộc, đất nước thường được gọi bằng tên "An Nam" cho tới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền Việt Minh ở Hà Nội chính thức đặt quốc hiệu là "Việt Nam".[17]

Lịch sử Bài chi tiết: Lịch sử Việt Nam

Buổi đầu lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên. Đến năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng và giành được độc lập cho dân tộc Việt. Sau đó, chế độ phong kiến Việt Nam phát triển mạnh mẽ cùng với công cuộc mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Tới giữa thế kỷ 19, đất nước bị thực dân Pháp đô hộ và sát nhập cùng Lào và Campuchia tạo thành Liên bang Đông Dương – thuộc địa của Pháp.

Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh đuổi thực dân Pháp năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm 2 nửa: miền Bắc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo chủ nghĩa cộng sản, trong khi ở miền Nam, Hoa Kỳ hỗ trợ Ngô Đình Diệm để lập nên Việt Nam Cộng hòa theo chủ nghĩa chống cộng[18] Sự can thiệp của Hoa Kỳ dẫn đến Chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến kết thúc vào năm 1975 khi Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris (1973) và Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ (ngày 30/4/1975), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành thắng lợi và thống nhất đất nước. Tuy vậy, sau đó, Việt Nam phải trải qua tình trạng nghèo đói và bị tàn phá bởi chiến tranh, cùng với việc Hoa Kỳ cấm vận giao thương với Việt Nam.[19] Vào năm 1986, Việt Nam tiến hành một số cải cách về kinh tế (gọi là Đổi mới), mở cửa cho nền kinh tế Việt Nam hòa nhập với quốc tế.[9]

Thời tiền sử và cổ đại

Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu vết của người đứng thẳng (Homo erectus) vào thời kỳ đồ đá cũ trên lãnh thổ Việt Nam cách đây khoảng 500.000 năm; các công cụ thô sơ bằng đá và các dấu răng của con người thời tiền sử được phát hiện tại các tỉnh phía Bắc gồm Lạng Sơn, Thanh Hóa, Yên Bái, Ninh Bình và Quảng Bình.[20] Tại các vùng phía Bắc, con người sinh sống trong các hang động đá vôi và sống bằng các hoạt động săn thú, hái lượm. Trong khi đó, tại các vùng duyên hải miền Trung như Nghệ An, con người chủ yếu sống bằng hoạt động đánh cá.[20]

Đến thời đại đồ đá mới cách đây khoảng 5000–6000 năm, người Việt cổ bắt đầu biết canh tác lúa nước; hàng loạt dấu vết của việc trồng lúa đã được phát hiện trên khắp lãnh thổ, từ cao nguyên cho tới đồng bằng.[20] Ngoài ra, con người đã bắt đầu biết chế tác công cụ tinh tế hơn và làm đồ gốm với kỹ thuật tinh xảo đạt đến đỉnh cao.[20] Đến khoảng năm 1000 trước Công nguyên, khu vực lúa nước phát triển ở sông Hồng và sông Cả phát triển mạnh mẽ thành nền văn hóa Đông Sơn, nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ, nổi tiếng với những trống đồng Đông Sơn tinh tế.[21] Sau đó, những nhà nước đầu tiên của người Việt, Văn Lang và Âu Lạc, lần lượt xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên.[22]

Bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN, người Việt bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị trong hơn một ngàn năm.[23] Sau nhiều lần khởi nghĩa không thành của những vị tướng lĩnh như Bà Triệu, Mai Thúc Loan hoặc chỉ giành độc lập trong thời gian ngắn như Hai Bà Trưng, Lý Bí, đến năm 905 Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự chủ cho người Việt, song chưa hẳn là giành được độc lập dân tộc vì Khúc Thừa Dụ vẫn tự nhận mình là quan của triều đình phương Bắc dù chỉ trên danh nghĩa.[24]

Đến năm 938, Việt Nam chính thức giành được độc lập lâu dài sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền chỉ huy, đánh bại quân Nam Hán.[25] Ngô Quyền xưng vương, tự đặt triều đình cai trị, đánh dấu việc người Việt chính thức độc lập khỏi các triều đình phương Bắc.

Sau khi giành được độc lập, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 14, dân tộc Việt Nam đã xây dựng đất nước với quốc hiệu là Đại Việt. Các triều đại nhà Tiền Lê, nhà Lý và nhà Trần đã tổ chức chính quyền tương tự thể chế chính trị của các triều đại Trung Hoa, lấy Phật giáo làm tôn giáo chính của quốc gia và cho truyền bá những tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Trong giai đoạn này, nhà Tiền Lê, nhà Lý và nhà Trần đã có một số lần phải chống trả các cuộc tấn công của các triều đại phong kiến ở Trung Quốc, nhưng đều giành được thắng lợi và bảo vệ được nền độc lập của Đại Việt.Tiêu biểu là ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược dưới thời nhà Trần.

Đến năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ đổi tên nước là Đại Ngu. Sau đó, nhà Hồ tiến hành cải cách đất nước trên nhiều lĩnh vực, trước mối đe dọa xâm lược Đai Ngu từ nhà Minh. Các cuộc cải cách của nhà Hồ khiến triều đình làm mất lòng dân. Năm 1407, Đại Ngu bị nhà Minh của Trung Hoa thôn tính, giai đoạn độc lập của người Việt bị gián đoạn. Sau đó, năm 1427, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên nhà Hậu Lê, giành lại độc lập cho dân tộc Việt. Triều Hậu Lê là triều đại mà chế độ phong kiến Việt Nam đạt đến đỉnh cao, đặc biệt là đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497).[26]

Vào thế kỷ 16, khi nhà Hậu Lê suy yếu, hai thế lực phong kiến lớn của Việt Nam là tập đoàn chúa Trịnh và chúa Nguyễn tranh chấp nhau, gây nên cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh kéo dài hơn một trăm năm, chia cắt Đại Việt thành đàng Ngoài và đàng Trong trong suốt 200 năm. Sau đó, đến cuối thế kỷ 18, vị tướng khởi nghĩa Nguyễn Huệ đánh bại cả hai lực lượng và lập nên nhà Tây Sơn, thống nhất Đại Việt. Tuy nhiên, Nguyễn Huệ mất sớm, người kế vị là Hoàng đế Cảnh Thịnh không đủ tài năng nên nhà Tây Sơn chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi và sau đó bị Nguyễn Ánh (một thành viên trong dòng họ chúa Nguyễn) cùng với viện trợ từ Pháp lật đổ, lập nên nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.[27]

Trong suốt thời đại phong kiến, các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn đã có công thu phục Chiêm Thành, Chân Lạp và Tây Nguyên ở phía Nam, mở mang bờ cõi đất nước.[28]

Các đô thị chính: Hà Nội, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Buôn Ma Thuột, Biên Hòa, TP Hồ Chí Minh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.Đến giữa thế kỷ 19, thực dân Pháp tiến hành xâm lược bán đảo Đông Dương, thâu tóm ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia làm thuộc địa. Đến năm 1887, ba quốc gia trên sát nhập thành Liên bang Đông Dương, chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Trong thời gian này, Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam, cùng với những phong tục, tập quán Tây phương, dần dần trở nên phổ biến song hành với những phong tục văn hóa truyền thống.[29] Trong chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Nhật Bản đảo chính Pháp và chiếm toàn thể Đông Dương. Với sự chuẩn bị từ trước đó trong nhiều năm và với sự ủng hộ của người dân, ngay sau khi hay tin đế quốc Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Việt Minh giành lại chính quyền từ tay Nhật. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước tự chủ đầu tiên của người Việt thời hiện đại. Tới tháng 1/1946, chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành người đại diện hợp pháp duy nhất cho nhân dân Việt Nam.[30]

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp muốn chiếm lại thuộc địa Đông Dương nhưng vấp phải sự phản kháng quyết liệt của người Việt Nam do lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) lãnh đạo. Để đối chọi lại với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, năm 1949, Pháp dựng lên Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại (từng là hoàng đế nhà Nguyễn) làm Quốc trưởng.[31]

Sau chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại chiến trường Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương. Hiệp định Genève được ký kết đã chấm dứt ách đô hộ gần một trăm năm của thực dân Pháp tại Việt Nam, đồng thời chia nước Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự cho Quân đội Nhân dân Việt Nam ở phía bắc và quân đội Liên Hiệp Pháp (bao gồm Quốc gia Việt Nam) ở phía nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời (không được coi là biên giưới quốc gia), dự kiến sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử cả nước.[32] Tuy nhiên, vì nhiều tác nhân bên ngoài, đặc biệt là sự can thiệp chính trị của Hoa Kỳ và sự bác bỏ tổng tuyển cử toàn quốc của chính quyền Ngô Đình Diệm nên ở miền Nam, việc tổng tuyển cử thống nhất đất nước mãi tới năm 1976 mới được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ chức. Tại miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam, được Hoa Kỳ hậu thuẫn và được công nhận bởi các quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ. Chính phe này tuyên bố không thi hành bầu cử thống nhất đất nước[33] Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo mô hình xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam được Liên Xô, Trung Quốc hậu thuẫn và được các nước trong khối xã hội chủ nghĩa khác công nhận và giúp đỡ. Từ đây, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2 miền. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Tại miền Nam thì tồn tại song song 2 chính phủ: Việt Nam Cộng hòa được Mỹ hậu thuẫn theo chủ nghĩa tư bản và chống cộng sản, còn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn theo đường lối dân tộc chủ nghĩa.[18]

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời tại miền Nam với mục tiêu đoàn kết những người dân miền Nam có tinh thần chống lại sự can thiệp của Mỹ, muốn đánh đổ chế độ Việt Nam Cộng hòa để thực hiện thống nhất Việt Nam.[34] Xung đột quân sự dần trở nên nghiêm trọng và kéo dài suốt hai thập kỷ (gọi là cuộc chiến tranh Việt Nam). Sau vụ đảo chính tháng 11/1963, ám sát Tổng thống Ngô Đình DIệm và cố vấn Ngô Đình Nhu, tình trạng Việt Nam Cộng hòa rơi vào hỗn loạn với những vụ đảo chính và phản đảo chính liện tục xảy ra[35][36][37]. Năm 1964, nhận thấy Việt Nam Cộng hòa sắp sụp đổ, Hoa Kỳ chính thức can thiệp quân sự, đưa quân Mỹ vào chiến đấu trực tiếp tại chiến trường Nam Việt Nam và thực hiện các đợt ném bom vào miền Bắc.[38] Năm 1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hành tổng tấn công khắp miền Nam nhân dịp Tết Mậu Thân, gây ra những tổn thất lớn cho Hoa Kỳ và làm cho phong trào phản chiến tăng mạnh.[39] Tới tháng 6/1969, Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập và được 50 quốc gia trên thế giới công nhận.[40]

Đến tháng 1 năm 1973, sau những tổn thất vượt ngưỡng chịu đựng trên chiến trường Việt Nam, cùng với những khó khăn trên chính trường Mỹ cộng với tác động của phong trào phản chiến trong nước và trên thế giới và việc Hoa Kỳ đã có những thỏa hiệp với chính quyền Mao Trạch Đông sau chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Richard Nixon[41], Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris và rút quân khỏi Việt Nam. Cuộc chiến kết thúc vào ngày ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính quyền tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng trước Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.[42]

Năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nước Việt Nam thống nhất đổi quốc hiệu thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Sau chiến tranh, do nhiều cuộc chiến tiếp tục nổ ra (chiến tranh biên giới phía Bắc chống Trung Quốc và chiến tranh biên giới Tây Nam tiêu diệt chính quyền diệt chủng của Khmer Đỏ ở Campuchia) và chính sách kinh tế bao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời bị Hoa Kỳ cấm vận thương mại trong gần hai thập kỷ, do đó Việt Nam vốn đã bị tàn phá bởi chiến tranh nay lại lâm vào các khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và xã hội[19] Năm 1986, Đại hội Đảng lần VI năm 1986 chấp thuận chính sách Đổi mới theo đó cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội.[43] Giữa thập niên 1990, Việt Nam bắt đầu hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Năm 1994, Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ,[19] và một năm sau đó, Việt Nam gia nhập khối ASEAN. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc (ECOSOC, UNESCO), Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN, APEC.[44] Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau 11 năm đàm phán.[45]

Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng đông nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển phía đông của bán đảo này.

Phần đất liền của Việt Nam hẹp ngang, chạy dài theo chiều bắc - nam. Khoảng cách giữa cực bắc (Lũng Cú) và cực nam (mũi Cà Mau) theo đường chim bay là 1650 km. Chỗ chiều ngang hẹp nhất ở Quảng Bình chỉ chưa đầy 50 km. Việt Nam có đường biên giới đất liền dài 4.550 km: phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Campuchia và Lào và phía Đông giáp biển Đông.[46]

Diện tích Việt Nam là 331.698 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.500 km² biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.

Địa hình Việt Nam rất đa dạng theo các vùng tự nhiên. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che phủ khoảng 75%. Có nhiều dãy núi lớn và cao nguyên như các dãy núi Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, Sông Gâm, Hoàng Liên Sơn, các cao nguyên Sơn La, Mộc Châu ở phía bắc, dãy núi Bạch Mã, Trường Sơn, cao nguyên Kon Tum, Pleiku, Đắk Lắk, Lâm Viên, Mơ Nông, Di Linh ở Tây Nguyên. Đồng bằng chiếm một phần tư diện tích, gồm các đồng bằng châu thổ như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các vùng đồng bằng ven biển như Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Đồng bằng là nơi tập trung dân cư đông đúc. Nhìn tổng thể Việt Nam gồm ba miền với miền Bắc có cao nguyên và vùng châu thổ sông Hồng, miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam.

Đất Việt Nam chủ yếu là loại đất ferralit giàu sắt ở vùng đồi núi và đất phù sa màu mỡ ở đồng bằng. Đất ferralitic hình thành trên đá bazan ở Tây Nguyên tơi xốp và phì nhiêu. Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng và vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều đất phèn. Rừng ở Việt Nam chủ yếu là rừng rậm nhiệt đới trên vùng đồi núi. Ở vùng đất thấp ven biển có rừng ngập mặn.

Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Các sông lớn ở phía bắc là sông Hồng, sông Đà, sông Thái Bình,... Các sông lớn ở phía nam là sông Tiền, sông Hậu và sông Đồng Nai. Mùa mưa, các sông Việt Nam thường gây ra lũ lụt.

Biển Đông bao bọc phía đông, nam và Tây Nam Việt Nam. Các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km².

Về tài nguyên đất, Việt Nam có rừng tự nhiên và nhiều mỏ khoáng sản trên đất liền với phốt phát, than đá, chôrômát, vàng... Than đá có nhiều ở Quảng Ninh, Thái Nguyên và đồng bằng sông Hồng. Sắt ở Thái Nguyên, Hà Tĩnh. Về tài nguyên biển thì có cá, tôm, dầu mỏ, khí tự nhiên. Với hệ thống sông, hồ nhiều, Việt Nam có tiềm năng cho thủy điện dồi dào, nhất là ở miền núi phía bắc và Tây Nguyên.

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết biến động thường xuyên. Phía bắc (phía bắc dãy Bạch Mã) có hai mùa gió chính: gió mùa đông bắc lạnh và khô vào mùa đông tạo nên mùa đông lạnh, gió tây nam nóng khô và đông nam ẩm ướt vào mùa hè. Phía nam có gió đông bắc vào mùa khô và gió tây nam vào mùa mưa. Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hòa một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, số giờ nắng khoảng 1.500 đến 3.000 giờ/năm và nhiệt độ từ 5 °C đến 37 °C. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội và hứng chịu 5 đến 10 cơn bão/năm. Do nằm ở Bắc Bán Cầu, nên bão (gió mạnh từ cấp 8 trở lên) và áp thấp nhiệt đới (gió mạnh cấp 6 hoặc cấp 7) vào Việt Nam xoáy ngược chiều kim đồng hồ.

Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,5 độ Celsius trong vòng 50 năm (1964 - 2014).[47]

Phân cấp hành chính Việt Nam gồm 3 cấp: cấp tỉnh và tương đương, cấp huyện và tương đương, cấp xã và tương đương.

Việt Nam được chia ra 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương(*) với thủ đô là Hà Nội. 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh và tương đương của Việt NamViệt Nam cho tới 2017 là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Trên thực tế cho đến nay (2010) các đại biểu là đảng viên trong Quốc hội có tỉ lệ từ 90% trở lên[48], những người đứng đầu Chính phủ, các Bộ và Quốc hội cũng như các cơ quan tư pháp đều là đảng viên kỳ cựu và được Ban Chấp hành Trung ương hoặc Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo trên chính trường Việt Nam theo quy định trong điều 4 của Hiến pháp 1992, vẫn cam kết với các nguyên tắc của Lênin "tập trung dân chủ", mà không cho phép thành lập một hệ thống đa đảng.[49] Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam là Tổng bí thư là một trong những người có quyền lực cao nhất Việt Nam, vì đảng duy nhất hợp lệ, cùng với Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng chính phủ nắm quyền lập pháp, hành pháp. Tổng bí thư từ đại hội XI (2011) là ông Nguyễn Phú Trọng.

Quốc hội, theo hiến pháp là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Nhiệm vụ của Quốc hội là giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Trên 90% đại biểu quốc hội là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nên quốc hội không có độc lập từ đảng, tuân thủ gần tuyệt đối các quy định của Đảng (tại các nước khác nhóm đại biểu chiếm đa số trong quốc hội cũng thường từ một đảng hay liên minh quyết định đường lối chính sách), tuy nhiên sau thời Đổi mới, vai trò của Quốc hội đẩy lên cao hơn. Nhiệm kỳ Quốc hội là 5 năm. Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu do đề cử của Ban Chấp hành Trung ương. Chủ tịch Quốc hội hiện nay (2016) là bà Nguyễn Thị Kim Ngân.

Chủ tịch nước, theo hiến pháp là người đứng đầu Nhà nước, nguyên thủ quốc gia nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội bầu do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu từ đề cử của Ban Chấp hành Trung ương. Chủ tịch nước có 12 quyền hạn theo Hiến pháp trong đó quan trọng nhất là: công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh. Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Tòa án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, là chức vụ cao nhất của Nhà nước Việt Nam, thường không giữ kiêm chức Tổng bí thư Đảng (có trường hợp giữ kiêm). Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay (2016) là ông Trần Đại Quang.

Chính phủ, theo hiến pháp là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ Chính phủ là 5 năm. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước giới thiệu từ đề cử của Ban Chấp hành Trung ương để Quốc hội bầu. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ hiện nay (2016) là ông Nguyễn Xuân Phúc.

Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Bộ Chính trị quản lý. Các Thứ trưởng và chức vụ tương đương do Thủ tướng bổ nhiệm, nhưng Ban Bí thư thông qua và quản lý.

Chính phủ Việt Nam có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. Ngoài ra chính phủ còn quản lý 5 cơ quan hành chính và 3 cơ quan truyền thông trực thuộc là Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam

Tòa án Nhân dân Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Việt Nam. Chánh án Tối cao là người đứng đầu Tòa án Nhân dân Tối cao. Chánh án Tối cao hiện nay (từ 2016) là ông Nguyễn Hòa Bình.

Theo các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".

Từ sau thời kỳ đổi mới, Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1992 và với Hoa Kỳ vào năm 1995, gia nhập khối ASEAN năm 1995

Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia (gồm 43 nước châu Á, 47 nước châu Âu, 11 nước châu Đại Dương, 29 nước châu Mỹ, 50 nước châu Phi).[50] thuộc tất cả các châu lục (Châu Á - Thái Bình Dương: 33, châu Âu: 46, Châu Mĩ: 28, châu Phi: 47, Trung Đông: 16), bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ.[44] Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU.

Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế tại thủ đô Hà Nội

Năm 1997, tổ chức hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ.

Năm 1998, tổ chức hội nghị cấp cao ASEAN.

Năm 2003, tổ chức hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi.

Năm 2004, tổ chức Hội nghị cấp cao ASEM vào tháng 10.

Năm 2006, tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11.

Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế.

Năm 2007 tổ chức đăng cai Olympic toán Quốc tế.

Ngày 16 tháng 10 năm 2007, tại cuộc bỏ phiếu diễn ra ở phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam chính thức được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.

Ngày 1 tháng 1 năm 2010, Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN và trong năm đó đã tổ chức nhiều cuộc họp lớn của khu vực.

Ngày 21 tháng 10 năm 2015, tại cuộc bỏ phiếu diễn ra ở phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam chính thức bầu làm thành viên của Hội đồng Kinh tế - xã hội Liên Hiệp Quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.[51]

Năm 2016, tổ chức Olympic Sinh học Quốc tế.

Năm 2017, tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11.

được chưa ???

Câu trả lời:

Này nhé , từ hạt lúa vàng chẳng có 1 thứ gì bị phí bỏ vứt đi . Vỏ trấu để ủ bếp , để làm phân bón ruộng . Cám để nuôi heo ( lợn ) . Anh và chị có nghe đâu đây tiếng hát sau lũy tre xanh :

..''năm đong đầy , em xay em giã

trấu ủ phân , cám bã nuôi heo

sang năm lúa tốt , tiền nhìu

em đem đóng thuế , đóng sưu cho chàng

đói nó có thiếp có chàng

còn hơn chung đỉnh giàu sang 1 mk ''

bà con dân cày quê ta đã trồng được hàng trăm giống lúa quý :nếp rồng , nếp mỡ , nếp cẩm , .. nước ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới .

'' Ruộng sâu trâu nái , con gái đầu lòng ''là mơ ước của nhân dân ta bao đời nay . Bà con nông dân đã phải 1 nắng 2 sương , thức khuya dậy sớm , cuốc bẫm cày sâu , dãi dầu quanh 5 suốt tháng mới làm ra bông lúa hạt gạo :

''ai ơi bưng bát cơm đầy

nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng ? ''

Màu xanh của lúa là màu chung thủy là đức tính kiên trì bền vững , là niềm tin hi vọng yên vui thanh bình . Ai đã từng say sưa ngắm đàn cò trắng bay lượn trên cánh đông xanh ? Ai đã từng lắng hồn mk nghe trog tiếng sáo diều vi vu trên chốn đồng quê ?

Hương sắc của lúa là biểu tượng cho vẻ đẹp xinh mơn mởn , vẻ dẹp duyên dáng dịu dàng của thôn nữ nơi xóm dưới làng trên . Ta yêu người , yeeuquee hương nên ta yêu thêm cây lúa , cây lúa mộc mạc , nhân hậu nghĩa tình .

Hãy hát lên đi nào , hỡi người bạn quý mến gần xa :

'' người đi trên sóng lúa êm

vui mùa lúa chín mà quên nắng vàng ''

xong rồi nè *.*

Câu trả lời:

Màu xanh của đất nước ta đẹp nhất , bát ngát nhất là màu xanh của đồng lúa . Cây lúa , ruộng lúa , đồng lúa là hình ảnh thân thương của đất nước và con người Việt Nam . Nhân dân ta đã biết trồng lúa nước đã mấy ngàn năm . Con trâu , cây lúa là người bạn thân của nhà nông , đời đời kiếp kiếp :

''Bao giờ cây lúa còn bông

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn ''

Và đúng vậy , cả ngàn năm nay cây lúa cũng như là đem đến sự ấm no cho mọi nhà . Nước ta ở xứ nóng có nhiều bình nguyên bát ngát , mênh mông . Sông Hồng Hà , sông Cửu Long Giang và hàng ngàn dòng soongkhasc đã mag nước ngọt chở phù sa bồi đắp nên những cánh đồng thẳng cánh cò bay , màu mỡ , bốn mùa xanh tốt . Ở miền Bắc nước ta phải gieo mạ , còn ở miền Na phải sạ lúa . Những nương mạ mới gieo , những cánh đồng mới sạ lúa , chỉ độ mới mười ngày sau đã có một màu xanh rờn trải dài , trải rộng như tấm thảm nhung căng tít tận chân trời xa . Sau một tuần trăng , gặp mưa thuận gió hòa đủ , đủ nước đủ phân , những cánh đồng lúa con gái biêng biếc xanh , phơi phới đâng lên dưới nắng hồng . Tháng ba , những cơn mưa đầu hè kéo tới . Tiếng sấm ầm ì ở cuối chân trời xa vọng , lúa lắng tai nghe rồi ''phất cờ mà lên ''

Ngày tháng trôi qua , lúa có đòng đòng , rồi lúa trỗ , hoa lúa trắng nõn nà , hương lúa ngạt ngào hương xa . Lúa ngậm sữa , lúa uốn câu trog tiếng con cuốc khoắc khoải gọi hè .Nắng vàng tỏa khắp nơi , lúa chín dần . Những bông lúa vàng trĩu hạt reo rì ào trước gió. Ai đã từng nghe lú reo , luá hát ? Khúc nhạc đồng quê làm ngây ngất lòng người . Hương lúa chín thoảng đưa , màu lúa chìn vàng tươi thấm sâu vào hồn người bao niềm vui sướng kì lạ :

''ai ơi bưng bát cơm đầy

deo thơm 1 hạt đắng cay mun phần ''

Nông nghiệp phát triển , các nhà khoa học đã lai tạo được nhìu giống lúa ngắn ngày , cho năng suất cao . Nhưng ở nước ta xưa nay vẫn có 2 vụ lúa chính : vụ chiêm và vụ mùa .Ngày xuống đồng cày cấy , ngày bước vào vụ gặt , xóm thôn rộn rịp , nô nức như bước vào ngày hội . Tiếng máy cày , Tiếng máy bừa reo , Tiếng máy đập lúa rào rào từ mờ sáng đến thâu canh . Những vụ lúa bội thu , nhà nhà người người vui tíu tít .

Cây lúa thảo hiền , cây lúa nhân hậu nên ko thái hóa thành cỏ dại . Một đời lúa cũng là 1 đời người . siêng năng , cần mẫn , hiến dâng , . Này nhé cây rạ cây rơm phải có nhìu rạ rơm :

''No cơm tấm , ấm ổ cơm "

ăn chắc mặc bền là nết nhà cần tiết kiệm ; ổ rơm ấm lắm , con nhà nghè ko thể thiếu ổ rơm trog những ngày đông tháng già .

Rơm là vũ khí : " hỏa mai đánh bằng rơm con cúi , cx đốt xog nhà dạy đạo kia - Gươm đeo dùng = lưỡi dao phay -cx chém rớt đần 2 quan nọ ""'' ( Nguyễn Đình Chiểu ) . Quân Tây Sơn dùng rơm tấp lên lá chắn gỗ để tiến đánh tiêu diệt đốn Ngọc Hồi của giặc Thanh xâm lược . Thời chống Mĩ , học sinh đến trường còn đội mũ rơm để chống bom bi của giặc ...

( tạm thời thế nhé , mk cần thời gian để nghĩ nhìu hơn , học tốt )

Câu trả lời:

Chiều nay, nghe tiếng cô phát thanh viên của phường bỗng đọc câu thơ: Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre...

Tôi buột miệng thì thầm: bài thơ này cô giáo đã có lần giới thiệu. Bài thơ Nhớ con sông quế hương của nhà thơ Tế Hanh... Những câu thơ vô tình vang lên khiến em nhớ vô cùng bà nội và mảnh đất Hưng Yên quê hương với rặng tre, con sông và bãi đất trồng rau - mà nhân dịp nghĩ hè, em đã theo bô' mẹ về thăm...

Cái em muốn nói đầu tiên là những bụi tre làng. Làng quê nội của em có rất nhiều rặng tre. Tre đã gắn với bô', với em nhiều kĩ niệm. Những ngày nắng, những ngày mưa, những đêm trăng cùng bạn bè trong xóm, những trò chơi thú vị tuổi thơ mỗi lần về quê... đã gửi gắm nơi rặng tre hiền hoà này, mà cứ mỗi lần trở về, kỉ niệm càng như dày lên.

Trong rặng tre , gió đang dào dạt cất lên những điệu đàn bất tuyệt . Trên lá tre , ánh trăng đọng lại trông như những hạt vàng từ trên trời rơi xuống và mắc lại trên lá . Những chị tre nghiêng mik soi bóng xuống mặt ao và mỉm cười vì các chị cảm thấy mình đẹp hơn khi ánh trăng tô điểm . Các chị cần phải duyên dáng vì các chị sắp phải ra mắt các chàng công tử cá từ dưới mặt ao ngoi lên rồi . Các chàng thường lên mặt nước chơi vào những ngày rằm cùng các chị tre để cả 2 đều có thể thưởng thức ánh trăng tuyệt đẹp .

Rặng tre làng em soi mình trên sông. Con sông Cửu An uốn khúc bao quanh làng như một dải lụa khổng lồ. Mỗi khi có gió, mặt sông lại lăn tăn gợn sóng như nói, như cười... Nước sông quê em cũng có màu đỏ như sông Hồng. Thật tức cười, khi những chiều hè đi tắm sông, đêm về không ngủ được vì ngứa. Ven sông còn có những bãi đất phù sa. Bãi đất có rất nhiều mùn, nên dân làng trồng rau rất tốt. Nơi đây, bọn em vẫn đùa là “Đất Mẹ”, vì chỉ cần vài lần lăn lộn vui đùa, có thể nhuộm áo trắng, áo màu của bọn em thành màu nâu đáng nhớ. Nhưng thật lạ làm sao, mỗi lần về quê vui đùa lãn lộn trên bãi đất, bọn em đều cảm thấy sức mạnh của Ảng-tê - nhân vật thần thoại Hi Lạp - trong chính mình.

Quê em không chĩ có rặng tre, dòng sông, bãi đất... như các vùng quê khác, mà quê em còn có những rặng nhãn lồng - đặc sản của đất Hưng Yên. Ôi những quả nhãn màu vàng chín mọng, cùi dày và ngọt lịm. Mỗi khi hè về, ngồi dưới gốc nhãn và ăn thoả thích để rồi em cũng không quên mang lên Hà Nội làm quà cho các bạn...

Em yêu quê em bởi ở đó có những người ruột thịt của em, có những kĩ hiệm tuổi thơ gắn bó suốt đời,... Những lần về thăm quê trong mùa hè, em càng nhận ra vẻ đẹp của quê hương mình. Văng vẳng bên tai giọng hát xúc động lòng người của các cô thôn nữ: “Ớ nơi ấy, vườn cây uốn quanh bên bờ sông, rộng mênh mông cánh đồng cò bay thẳng cánh. Ở nơi ấy, có người bạn tôi mến thương, mắt đen đen như hạt nhãn lồng...”. Nhạc sĩ nào sáng tác bài ca mà hay vậy?