Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Phú Thọ , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 6
Số lượng câu trả lời 73
Điểm GP 6
Điểm SP 49

Người theo dõi (5)

Đang theo dõi (9)

Isolde Moria
Linh Phương
Nguyễn Huy Tú
Nguyen Thi Mai
Đức Minh

Câu trả lời:

Cứ vào những mùa thu lá rụng , ở nước Pháp xa xôi tôi lại nhớ về Việt Nam ngày còn kháng chiến, nhớ về đứa cháu thân yêu đã hi sinh mà tôi thường gọi bằng cái tên trìu mến : ‘ Lượm’ !

Hai chú cháu tôi quen nhau tình cờ như một sự sắp đặt thú vị ở phố Hàng Bè, Thành phố Huế. Thoạt nhìn cái dáng loắt choắt, gầy gầy, đôi chân thoăn thoắt như nhún nhẩy, cái đầu nghênh nghênh, tự cao, kiêu hãnh, tôi đoán ngay, đây là một cậu bé nhanh nhẹn, hoạt bát liền bắt chuyện làm quen như công việc thường nhật của một nhà Cách mạng. Chú bé cởi mở dẫn tôi đi trên cánh đồng thơm mùa lúa chin vừa huýt sáo vừa nhảy nhót như chú chim chích hồn nhiên và vô tư. Khẽ khàng đến mức độ cẩn trọng, từ tốn, cậu bé nắm tay tôi đi nhè nhẹ: ‘Chú Tố Hữu biết không, con đường hai chú cháu mình đang đi chính là con đường tắt tới đồn Mang Cá – nơi cháu đang làm việc. Cháu thường xuyên đi lien lac qua con đường này nên cứ chiều chiều lại được nghe tiếng chim đa đa hót vui ơi là vui ! Còn thích hơn cả ở nhà ấy chứ !’

Nhìn cái cách Lượm kể lể mới đáng yêu làm sao, chẳng khác gì một đứa trẻ lần đầu tập đọc, hai má đỏ ửng như trái bồ quân , híp mí cười ngộ nghĩnh :’ Thôi ! Chào đồng chí ‘

Cậu bé mãi lúc một xa theo cái bong nhỏ tung tăng chiếc xắc và mũ ca lô đội lệch bên đầu. Cách cái ngày tôi gặp Lượm không xa thì khoảng đầu tháng sáu, dưới chiến khu có gửi lên cho tôi một bức thư mà mới thoáng qua dòng đầu tôi đã không kìm được nước mắt : ‘Lượm ! Cháu tôi !’. Trong một lần đưa thư khẩn cấp, mọi người đều ra chiến dịch, Lượm đành phải nhận trách nhiệm của một chiến sĩ đưa thư nhỏ tuổi. Cậu bé bỏ thư vào bao và mỉm cười hạnh phúc như niềm tự hào được đi đánh trận. Mặc bom, mặc đạn, cứ thế đường ta đi, sợ chi cái chết. Cậu bé chạy như bay trên con đường quê một màu lúa chin tay giữ chặt chiếc xắc bên mình. Thế rồi….’Lượm !’ Tôi nghẹn ngào không nói nên lời : Lượm đã hi sinh !

Ngay cả khi lìa khỏi trần đời, tay em vẫn nắm chặt bức thư như hình ảnh một chiến sĩ quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập của dân tộc. Trên cánh đồng dường như vẫn phảng phất trong hương sữa lời cậu bé nói với tôi như lần đầu gặp mặt : hồn nhiên, vô tư, nhí nhảnh. Giờ đâu còn hình ảnh Lượm của ngày xưa, đâu còn chú chim chích như ngày nào vừa huýt sáo, vừa nhảy nhót trên đồng.

Cái chết của Lượm như một ngòi sung thúc dục nhân dân ta chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Lượm mãi mãi khắc sâu trong tâm trí tôi về một chiến sĩ nhỏ tuổi gan dạ, dũng cảm, quên đi cái ‘tôi’ của mình để bảo vệ cái ‘tôi’ lớn hơn. Đó là cái ‘tôi’ của Việt Nam trước bạn bè thế giới.

Câu trả lời:

“Cây rung cây, hoa đua hoa.Khắp nơi bình minh rắc gieo hương nồng.’- Đúng như lời bài hát này, bình minh thật là đẹp! Bình minh cho ta một cảm giác khoan khoái, dễ chịu của buổi sớm. Như ai, em cũng đã một lần được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên rực rỡ này trên mảnh đất quê hương thân yêu.

Sáng hôm ấy, không hiểu sao em dậy sớm hơn mọi ngày. Em rảo bước đi ra sân, tập thể dục. Không khí nhè nhẹ, trong lành hòa vào da thịt mát rượi. Bầu trời lúc này còn lấp loáng những vệt đen nhạt nhòa từ từ biến mất để thế chỗ cho ông mặt trời. Cả thôn làng chìm trong biển sương sớm. Trên cành lá, những giọt sương mai khẽ đọng lại trắng xóa. Bác mặt trời tròn xoe, ửng hồng, còn e ấp nấp sau hàng núi cao, tỏa những tia nắng nhỏ như hình dẻ quạt nhiều màu sắc rực rỡ. Những đám mây trắng bồng bềnh, nhiều hình thù kì lạ trôi nhè nhẹ trên bầu trời. Ngoài đồng, lúa đang thì con gái mơn mởn dựa vào nhau thì thầm nói chuyện. Nhìn từ xa, cánh đồng như một tấm thảm xanh um, nhấp nhô trong làn gió sớm. Bỗng từ đâu, một tiếng hót trong trẻo vang lên làm khuấy động sự yên tĩnh vốn có của bình minh. Hòa quyện với giọng hót đó là tiếng gáy của chú gà trống oai dũng:” Ò..ó..o..” càng thêm vang động đất trời. Trong phút chốc, sương tan, trời sáng sủa hơn hẳn, làm làng quê em hiện lên như một bức tranh tuyệt mỹ. Đồi núi uốn mình trong chiếc áo the xanh. Em say sưa ngắm nhìn cảnh tượng đẹp đẽ ấy mà bấy lâu nay chưa được thưởng thức. Khi vầng hồng thực sự hiện ra rực rỡ giữa màu êm trắng, chiếu ánh sáng xuống vạn vật thì cả làng xóm như bừng lên giữa ánh bình minh. Một ngày mới đã thực sự bắt đầu. Đằng xa, bóng cô bác nông dân lập lòe dắt trâu ra đồng, vừa đi vừa nói cười rộn rã. Tiếng máy tuốt lúa xào xào, hất tung những chị lúa như những đợt pháo bông dài. Cô chú công nhân vội vàng đi làm. Tiếng còi xe vang lên liên hồi. Không khí thật là tấp nập, nhộn nhịp. Em bước chân ra vườn, ngắm nhìn chú chim sẻ nhỏ trên cành cây. Bên hàng rau cải, mái đầu bạc của ông em đang lúi húi nhổ cỏ, bắt sâu. Bỗng một tiếng thân thuộc vang lên:”Thư ơi, con vào đây ăn sáng rồi mẹ chở đi mua đồ”. Em dạ rồi nhanh chóng vào nhà chuẩn bị đồ đi với mẹ. Được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bình minh như thế này, em cảm thấy rất phấn khởi, lạc quan và yêu đời. Em sẽ cố gắng học giỏi, chăm ngoan để mai này về xây dựng lại quê mình cho đẹp hơn.

Câu trả lời:

(Tả con chó)

Từ trước tới giờ, gia đình em nuôi cũng khá nhiều chú chó. Nhưng Vàng là một chú chó khôn ngoan và hiền lành hơn cả. Nó sống với gia đình em đến nay đã gần hai năm.

Vàng có một thân hình to cao lực lưỡng, nặng chừng mười ba, mười bốn ký. Toàn thân là một màu vàng sậm, mượt như tơ. Có lẽ vậy nên mới đặt tên cho cậu là Vàng. Đầu chú to như cái yên xe đạp Mini, hai cái tai dựng đứng. Nó có thể phát hiện được tiếng chân người lạ người quen từ tít đằng xa. Đôi mắt to tròn màu nâu sẫm. Cái mũi thì lúc nào cũng ướt ướt như được bối mỡ. Mấy sợi ria mép ngắn ngắn cùng với mấy cái râu khôn ở dưới cằm đen cứng tạo cho chú một bộ mặt hiền từ dễ mến. Mõm chú to, rộng mỗi khi ngáp để lộ hàm răng trắng với mấy cái răng nanh ở hai bên khóe miệng, trông đến rợn người. Và cái lưỡi thì màu hồng nhạt có sọc đen, thè ra ngoài mỗi khi trời nắng gắt.

Vàng rất khôn ngoan, chú hiểu được ý chủ. Bố bảo nằm thì nó nằm, bảo ngồi dậy thì chú chống chân trước lên, ngọ nguậy cái đầu, còn cái đuôi thì ngoắt qua ngoắt lại như một cái chổi bông. Khách đến nhà chú đều phân biệt được khách lạ, khách quen. Người lạ, chú đứng ngáng ở cổng, nhe hai hàm rầng hù dọa. Còn khách quen thì vẫy đuôi rối rít chào mời. Đặc biệt, mỗi lúc em đi học về, vừa mới về tới cổng đã thấy chú từ bậc cửa phóng ra, cái đuôi dài ngoắt lia lịa, miệng phát ra những tiếng kêu ư ử, ánh mắt vui mừng nhìn em không chớp. Rồi chú cọ cọ cái mõm ướt vào đùi em, tay em, hai chân trước co lên cào cào trên không. Những lúc như thế, em chỉ biết xoa xoa vào đầu nó và cầm chân trước rung rung vài cái khẽ nói: “Cám ơn Vàng! Vàng ngoan lắm! Nào, ta vào nhà đi!”. Nó lon ton chạy theo em từ ngõ vào đến nhà mới quay trở lại bậc cửa nằm trông nhà.

Vàng khôn ngoan lanh lợi, cả nhà em ai cũng quý nó. Coi nó như một thành viên của gia đình.


Câu trả lời:

I. Văn học dân gian là gì?

Là những tác phẩm ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo nhằm phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau của đời sống cộng đồng.

II. Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

1. Tính truyền miệng

- Không lưu hành bằng chữ viết mà được truyền miệng từ người này sang người khác qua nhiều thế hệ và các địa phương khác nhau.

- Được biểu hiện trong diễn xướng dân gian.

Tác dụng:

- Làm cho tác phẩm văn học dân gian được trau chuốt, hoàn thiện, phù hợp hơn với tâm tình của nhân dân lao động.

- Tạo nên tính dị bản (nhiều bản kể) của văn học dân gian.

Ví dụ: Văn bản truyện cổ tích Tấm Cám, truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy,...

2. Tính tập thể

Quá trình sáng tác tập thể: Cá nhân khởi xướng" tập thể hưởng ứng (tham gia cùng sáng tạo hoặc tiếp nhận)" tu bổ, sửa chữa, thêm bớt cho phong phú, hoàn thiện.

3. Tính thực hành

- Là sự gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

- Ví dụ: Bài ca lao động: Hò sông Mã, hò giã gạo,...

Bài ca nghi lễ: Hát mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường,...

III. Hệ thống thể loại của văn hóa dân gian

- Tự sự

- Trữ tình

- Nghị luận

- Sân khấu

- Thần thoại

- Sử thi

- Truyền thuyết

- Truyện cổ tích

- Truyện cười

- Truyện ngụ ngôn

- Truyện thơ

- Vè

- Ca dao

- Tục ngữ

- Câu đố

- Chèo

IV. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian

1. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc (giá trị nhận thức)

- Văn học dân gian "là tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội và con người" phong phú.

- Văn học dân gian thể hiện trình độ nhận thức và quan điểm tư tưởng của nhân dân lao động nên nó mang tính chất nhân đạo, tiến bộ, khác biệt và thậm chí đối lập với quan điểm của giai cấp thống trị cùng thời.

Ví dụ:

Con vua thì lại làm vua

Con sãi ở chùa thì quét lá đa

Bao giờ dân nổi can qua

Con vua thất thế lại ra quét chùa.

Đừng than phận khó ai ơi

Còn da: lông mọc, còn chồi: nảy cây...

Tri thức dân gian thường được trình bày bằng ngôn ngữ nghệ thuật" hấp dẫn, dễ phổ biến, có sức sống lâu bền với thời gian.

Ví dụ:

Bài học về đạo lí làm con:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

2. Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người

Tinh thần nhân đạo:

+ Tôn vinh giá trị con người (tư tưởng nhân văn).

+ Tình yêu thương con người (cảm thông, thương xót).

+ Đấu tranh không ngừng để bảo vệ, giải phóng con người khỏi bất công, cường quyền.

Hình thành những phẩm chất truyền thống tốt đẹp:

+ Tình yêu quê hương, đất nước.

+ Lòng vị tha, đức kiên trung.

+ Tính cần kiệm, óc thực tiễn,...

3. Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc

- Nhiều tác phẩm văn học dân gian trở thành mẫu mực nghệ thuật để người đời học tập.

- Khi văn học viết chưa phát triển, văn học dân gian đóng vai trò chủ đạo.

- Khi văn học viết phát triển, văn học dân gian là nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết, phát triển song song, làm cho văn học viết trở nên phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc.