Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Sơn La , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 18
Số lượng câu trả lời 346
Điểm GP 33
Điểm SP 294

Người theo dõi (104)

Đang theo dõi (121)

Nguyễn Nguyễn
harumi05
Angla Nguyễn
I ♥ Jungkook

Câu trả lời:

hững trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu là một truyện ngắn đặc sắc của cây bút châm biếm nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm lên án, vạch mặt bản chất vô liêm sỉ. bỉ ổi của tên quan Toàn quyền Đông Dương Va-ren đồng thời ngợi ca nhà chí sĩ cách mạng yêu nước Phan Bội Châu.

Nhưng có người sau khi đọc truyện ngắn này vẫn băn khoăn: Vì sao Nguyễn Ái Quốc không để nhân vật Phan Bội Châu vạch tội hay thét mắng vào mặt Va-ren mà chỉ im lặng, với nụ cười ruồi thoáng qua, "kín đáo, vô hình" trên gương mặt. Người đó cũng không hiểu vì sao "cái im lặng dửng dưng" của Phan Bội Châu lại có thể "làm cho Va-ren sửng sốt cả người". Chúng ta cần hiểu những điều đó như thế nào?

Tác phẩm ra đời khi đất nước ta vẫn còn bị thực dân Pháp đô hộ. Chúng mượn chiêu bài “khai hóa văn minh” mà áp bức, bóc lột đồng bào ta. Khi đó, viên quan Toàn quyền Pháp Va-ren chuẩn bị sang Đông Dương nhậm chức, từ chính lòng nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Tác phẩm là một truyện ngắn có tính chất kí sự nhưng thực tế là hư cấu, do tác giả tưởng tượng và sáng tạo từ sự việc trước khi sang Đông Dương nhậm chức, Va-ren có tuyên bố sẽ quan tâm tới Phan Bội Châu.

Phan Bội Châu là ai? Ông là nhà chí sĩ yêu nước vĩ đại, là niềm hi vọng cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ. Ông đã có nhiều hoạt động cách mạng nhằm giành lại độc lập tự do cho đất nước: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục,... Đó là “con người đã hi sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình”, “dâng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng". Đứng trước Va-ren và những lời dụ dỗ ngọt ngào của hắn trong nhà tù ông chỉ “im lặng dửng dưng" với nụ cười ruồi thoáng qua, "kin đáo, vô hình" trên gương mặt. Quả thực, Va-ren xứng đáng nhận được “lời chào mừng” thâm thúy ấy của ngươi tù nổi tiếng ấy.

Trước khi sang Đông Dương, do sức ép của công luận ở Pháp và Đông Dương, Va-ren đã hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Nhưng thực chất đó chỉ là một lời hứa dối trá nhằm trấn an công luận, trấn an nhân dân Việt Nam đang đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng biện pháp châm biếm sâu cay để lật tẩy bộ mặt giả dối của Va-ren. Y đã hứa một cách "nửa chính thức", tức là hứa ỡm ờ, hứa mà không nhất thiết phải thực hiện. Tiếp theo Người lại viết: "giá thử cứ cho rằng một vị Toàn quyền Đông Dương mà lại biết giữ lời hứa đi chăng nữa...". Viết như thế, Người đã ngầm cho độc giả (nhân dân Việt Nam) nhận rõ bộ mặt thật của những tên quan thực dân. Trong quá trình cai trị, để có thể vơ vét được nhiều của cải, để bóc lột được công sức lao động của nhân dân Đông Dương một cách tàn tệ, thậm chí đi làm bia đỡ đạn cho chúng, chúng đã hứa rất nhiều nhưng không bao giờ giữ lời hứa, nhất là khi những lời hứa ấy lại không mang đến lợi ích cho chúng.

Đặc biệt, trong đoạn văn đối thoại (mà thực chất là độc thoại) trong văn bản có hai nhân vật: Va-ren và Phan Bội Châu. Trong cuộc đối thoại tưởng tượng của tác giả, hầu như chỉ có Va-ren nói, còn Phan Bội Châu thì im lặng. Bởi vậy, ngôn ngữ của Va-ren thực chất là ngôn ngữ độc thoại, tự nói một mình. Qua lời nói, cử chỉ, Va-ren bộc lộ rô tính cách nham hiểm, thâm độc. Y không ngừng ve vuốt, dụ dỗ, bịp bợm một cách trắng trợn nhằm thuyết phục Phan Bội Châu từ bỏ tư tưởng cách mạng, cộng tác với chúng (thực chất là đầu hàng). Thậm chí y còn đem cả thân thế của mình: từng là một kẻ phản bội đồng đội, đồng chí trong Đảng Xã hội, để thuyết phục Phan Bội Châu hãy theo gương y để có được một cuộc sống sung sướng.

Qua ngôn ngữ "tự bộc lộ" của mình, Va-ren tỏ ra là một kẻ xảo trá, bỉ ổi, vô liêm sỉ,., hắn đã mất hết lòng tự trọng của một con người. Phản bội đồng chí, phản bội lí tưởng - còn gì ghê tởm hơn những điều ấy? Và như thế, ta thật dễ hiểu thái độ của Phan Bội Châu đối với hắn.

Đứng trước một kẻ như Va-ren, Phan Bội Châu im lặng, cái im lặng dửng dưng. Im lặng vì ghê tởm không còn gì để nói và cùng không còn biết nói gì với một kẻ như vậy (rằng dù có nói gì cũng vô ích!). Đặc biệt, cái "dửng dưng" của vị thiên sứ tái thế ấy đã khẳng định rằng Phan Bội Châu không quan tâm đến lời Va-ren nói, thậm chí ông biết trước hắn sẽ nói gì! Như vậy chưa đủ, tác giá còn dẫn lời của một nhân vật tưởng tượng khác (anh lính dõng) để tạo cho câu chuyện cảm giác khách quan. Theo lời anh lính dõng, anh ta có thấy "đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi". Nụ cười "kín đáo, vô hình” đó thể hiện một thái độ khinh bỉ cực độ, nhạo báng đến tột cùng cái kẻ đang thao thao bất tuyệt những điều nhơ bẩn. Đồng thời đó cũng cho thấy bản lĩnh kiên cường của nhà cách mạng trước kẻ thù, cho dù đó là Toàn quyền Đông Dương đi chăng nữa.

Trước thái độ của Phan Bội Châu, Va-ren “sửng sốt cả người”. Tác giả đã bình luận rằng: "Nhưng cứ xét bình tĩnh, thì đó chỉ là vì (Phan) Bội Châu không hiểu Va-ren cũng như Va-ren không hiểu (Phan) Bội Châu . Điều đó cũng thật dễ hiểu, hai con người ấy không hiểu được nhau bởi họ không thể và không bao giờ cùng tư tưởng, chí hướng, không bao giờ đi chung một con đường. Dù Va-ren có nói gì chăng nữa thì với Phan Bội Châu, y cũng chỉ là một kẻ xa lạ. một kẻ không đáng để Phan Bội Châu phải bận tâm.
Hai nhân vật chính của văn bản được xây dựng theo quan hệ tương phản, đối lập: Va-ren là một viên toàn quyền, còn Phan Bội Châu là một người tù. Một bên là kẻ bất lương nhưng thống trị, bên kia là người cách mạng vĩ đại nhưng đang bị cầm tù. Tác giả dành một số lượng từ ngữ lớn, hình thức ngôn ngữ trần thuật để khắc hoạ tính cách Va-ren. Còn với Phan Bội Châu, tác giả dùng sự im lặng làm phương thức đối lập. Đây là một cách viết vừa tả vừa gợi, rất thâm thuý, sinh động và lí thú.

Nguyễn Ái Quốc đã rất thành công khi viết truyện ngắn “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”. Đặc biệt, qua thái độ của Phan Bội Châu đối với Va-ren và sự sửng sốt, kinh ngạc của gã phản bội, tác giả đã phản ánh tính cách đặc trưng của hai nhân vật. Thiên truyện ngắn này lưỡi dao găm sắc bén vạch mặt kẻ thù đồng thời là khúc hát ngợi ca khí phách hiên ngang, bất khuất của người anh hùng Phan Bội Châu.

Câu trả lời:

Ca dao tục ngữ từ xưa đến nay vẫn luôn là những bài học vô cùng quý báu mà ông cha ta đúc kết để lại cho con cháu. Chúng không cũ đi, mà vẫn luôn có giá trị trong cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau. Có những câu ca dao khuyên bảo chúng ta cần phải biết yêu thương gia đình, có những câu cao dao khuyên chúng ta phải biết yêu đất nước, cả dân tộc phải biết đoàn kết. Câu cao dao: “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng” là một bài ca dao về chủ đề tình yêu quê hương đất nước. Bài ca dao khuyên chúng ta phải biết yêu thương đùm bọc đồng bào của mình, dù không có quan hệ huyết thống, nhưng để là con rồng cháu tiên, cùng chung một nguồn gốc, cùng sống trong một bờ cõi.

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu về câu ca dao. Nhiễu điều, đó là tấm vải được phủ lên giá giương khi không sử dụng, nhằm giữ cho giá gương luôn sạch sẽ, không bị bụi bẩn và luôn bền đẹp. Giá gương luôn cần tấm nhiễu, cũng như tấm nhiễu chỉ phát huy được tác dụng của mình khi được phủ lên giá gương. Đó là nghĩa đen của câu ca dao. Và ngay ở câu tiếp theo, ý nghĩa của hai hình ảnh tượng trưng nhiễu điều – giá gương đã trở nên rõ ràng . Đó chính là hình ảnh những người trong một nước. Ông cha ta đã khuyên con cháu rằng phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, phải biết đoàn kết để tạo lên sức mạnh tập thể, cũng như nhiễu điều – giá gương, lúc nào cũng ở bên cạnh, bổ sung cho nhau, khiến cho vật kia trở nên có ý nghĩa hơn, đẹp hơn. Bác Hồ đã dạy chúng ta: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” để nói lên sức mạnh của đoàn kết, sức mạnh của tập thể.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng

Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Như vậy, chúng ta đâu phải là người xa lạ. Chúng ta đều có chung tổ tiên, chung nguồn gốc, đều là anh em một nhà trên dải đất hình chữ S. Năm mươi tư dân tộc anh em cùng nhau đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước.

Từ xưa đến nay, nhân dân ta đã có tinh thần đoàn kết vô cùng to lớn. Trong rất nhiều các cuộc kháng chiến, nhân dân ta phải đối mặt với những kẻ thù mạnh hơn, tàn ác hơn gấp nhiều lần. Nhưng bằng tinh thần đoàn kết, sự mưu trí, dũng cảm, mà sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, rồi đến những kẻ thù từ phương Tây với những vũ khí tối tân, hiện đại, chúng ta vẫn là một nước tự do, độc lập. Chỉ với những gậy gốc. Rồi những năm kháng chiến gian khổ, mọi hoạt động đều tập trung tại Việt Bắc. Nếu không có sự giúp đỡ của đồng bào và người dân nơi mảnh đất ấy, làm sao kháng chiến có thể thành công, làm sao chúng ta có thể giành được độc lập.

Ngày nay, trong thời đại hòa bình, tinh thần đoàn kết ấy vẫn luôn luôn sáng mãi trong lòng mỗi chúng ta. Chúng ta vẫn cảm thấy đau khi nhìn thấy những đồng bào miền Trung gặp bão lũ. Chúng ta vẫn hết lòng quan tâm, chăm lo cho những người già neo đơn, những em nhỏ cơ nhỡ, những người khó khăn xung quanh ta. Chia sẻ khó khăn với người khác khiến cho chúng ta thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn, mọi người cũng thêm xích lại gần nhau hơn. Trong cuộc đời mỗi chúng ta, không phải lúc nào mọi chuyện cũng thuận lợi. Ai rồi cũng cần người khác giúp đỡ, dù là về vật chất hay tinh thần. Vì vậy, hãy cứ cho đi khi có thể. Rồi một ngày bạn sẽ nhận lại được nhiều hơn những gì bạn cho đi. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết bài hát trong đó có câu: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…”

Đoàn kết, yêu thương tạo ra sức mạnh tập thể vô cùng to lớn. Chẳng thế mà chỉ với giáo mác gậy gộc, chúng ta chiến thắng được những đế quốc vô cùng hùng mạnh, tàn ác. Chính lòng yêu thương, sự sẻ chia của những người xung quanh khiến những người có hoàn cảnh khó khăn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, ý nghĩa hơn, ấm áp hơn bao giờ hết. Nhờ những tấm lòng, em bé vùng cao có áo ấm, được học cái chữ, được học điều hay. Nhờ những tấm lòng, những cụ già neo đơn không còn phải cô đơn một mình nữa. Nhờ những tấm lòng, kết nối những yêu thương. Những chương trình vô cùng có ý nghĩa như “ Áo ấm vùng cao”, “Trung thu cho em”, “ Tết trọn vẹn” đã giúp cho những người có hoàn cảnh khó khăn có được một cuộc sống tốt hơn, và quan trọng hơn, là giúp họ nhận được những sẻ chia, ấm áp của tình người.

Tuy nhiên, vẫn còn có những người thờ ơ với những hoàn cảnh khó khăn xung quanh mình. Đó là khi chúng ta nhìn thấy người đi đường bị đổ xe nhưng không ai chịu dừng lại vài phút để giúp. Hay những cánh tay xua đuổi những em bé ăn xin tội nghiệp. Người ta ngày càng ích kỉ, chỉ biết bo bo giữ mình, sợ bị lừa, sợ bị thiệt. Nhưng may mắn thay, đó chỉ là số ít người trong xã hội mà thôi. Hãy thử nghĩ mà xem, chúng ta sống một cuộc sống mà chỉ biết mình, thì sẽ buồn chán, tẻ nhạt đến thế nào? Không chỉ thế, xã hội không có sự giúp đỡ, sẽ thụt lùi, chậm phát triển. Thật là một hậu quả đáng sợ, đáng suy ngẫm.

Bác Hồ của chúng ta đã từng nói: “Non sông Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí đó không bao giờ thay đổi.”. Hãy luôn nhớ rằng dân tộc ta luôn là một thể thống nhất, dù có khác nhau về ngôn ngữ, nhưng 54 dân tộc vẫn là anh em, vẫn luôn phải đoàn kết để cùng nhau giữ gìn và phát triển đất nước.

Câu trả lời:

Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn các tác phẩm tự sự trung đại. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.

Tác phẩm kể chuyện viên quan phủ làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia 3 đoạn. Đoạn 1: từ “Gần một giờ đêm.” đến "... Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ vỡ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn 2: từ “ấy, lũ con dân...” đến “... Điếu mày”: cảnh quan phủ mà nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn 3: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng - những kẻ chức sắc ở địa phương - say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân "hộ đê". Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động...

Bức tranh thứ nhất: Cảnh nhân dân chống bão lụt.

Về thời gian, đây là lúc "gần một giờ đêm" nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, vào tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. "Mưa tầm tã", rồi lại "trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống". Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. "Nước sông Nhị Hà lên to quá" rồi lại "nước cứ cuồn cuộn bốc lên". Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khỗ, hiểm nguy vô cùng! "Hàng trăm nghìn con người... kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy... người nào người nấy lướt thướt như chuột lột" khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc hộ đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán "xem chừng núng thế lắm... không khéo thi vỡ mất... Tình cảnh trông thật là thảm... Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay!...". Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tinh, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc sống, lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.

Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân... "sống chết mặc bay", ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến... lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm: "...đèn thắp sáng trưng... nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại...". Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn "uy nghi, chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi...". Xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến; những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hầm đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu... Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc... Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi... chơi! Giữa lúc nhân dân đang trảm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: "Bẩm, dễ có khi đê vỡ". Tên quan quát: "Mặc kệ". Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin "Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi" thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: "Đê vỡ rồi!... thời ông cách cổ chúng mày... bỏ tù chúng mày". Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi lo âu của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề "tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc..." (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh vỡ đê) thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: "Ù! Thông tôm, chi chỉ nảy... Điếu mày!". Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thảm sầu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng; sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc... Giận và thương, hai cung bực cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện, nhà văn viết: "Ấy trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!". Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện, vừa miêu tả, vừa biểu ý, vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, cảm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.

Vậy đấy, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh "nghìn sầu muôn thẳm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn...