Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 15
Số lượng câu trả lời 40
Điểm GP 1
Điểm SP 22

Người theo dõi (10)

phạm nhất duy
Edowaga Conan
luuthihong

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Đây là một thể loại độc đáo đầy tính dân tộc,
tuy nhiên hơi hiếm thấy trong các sáng tác của giới trẻ tại
hải ngoạị Cũng nhằm mục đích muốn giúp các bạn yêu thơ
có cơ hội phát triển tài sáng tác nên Tác Giả viết vội
vài dòng này mong có thể góp nhặt những gì hiểu biết
để gửi đến các bạn yêu thơ khắp nơi .
Vài Nét Về Niêm Luật:
Đây là thể thơ độc đáo của Việt Nam. Thể thơ
Song Thất Lục Bát kết hợp uyển chuyển giữa loại thơ 7
chữ và lục bát. Gồm nhiều đoạn, mỗi đoạn bắt đầu
bằng hai câu 7 chữ, rồi đến câu 6 chữ xong đến câu 8
chữ; cứ như thế mà tiếp tục ngắn dài tùy ý miễn sao là
bội số của 4. Chẳng hạn 4, 8, 12, 16, 24, 32,... câụ
QUY TẮC CHUNG:
Có thể tóm lược niêm luật của hai đoạn kế nhau, mỗi
đoạn 4 câu như sau :

câu 1: x x t x b x T1
câu 2: x x b x T1 x B1
câu 3: x b x t x B1
câu 4: x b x t x B1 x B2
câu 5: x x t x B2 x T2
câu 6: x x b x T2 x B3
câu 7: x b x t x B3
câu 8: x b x t x B3 x B4

với:
x = có thể là bằng hay trắc không bó buộc
b = thanh bằng (ịẹ, không dấu hay dấu huyền)
t = thanh trắc (ịẹ, hỏi, ngã, sắc, nặng)
B = vần thanh bằng
T = vần thanh trắc

Trong 2 câu thất (7 chữ), trừ chữ đầu ra, 6 chữ còn lại
theo quy tắc:
"Nhất, tam, ngũ bất luận
Nhị, tứ, lục phân minh"
Như vậy, ta có thể thấy trong 2 câu 7 chữ, chỉ có chữ
thứ 3, 5 và 7 cần theo đúng niêm luật. Trong câu 6 chữ,
chỉ có chữ thứ 2, 4 và 6 cần theo đúng niêm luật. Trong
câu 8 chữ, chỉ có chữ thứ 2, 4, 6 và 8 cần theo đúng niêm
luật. Những chữ còn lại có thể chọn thanh bằng hay trắc
tùy ý miễn sao đọc lên âm điệu nghe xuôi tai là được.
Khi chữ thứ 3 của 2 câu thất bị "biến thể" (nghĩa là
không tuân theo quy tắc bằng trắc nêu ở trên), thường 2
câu thất đó là 2 câu đối như trong 8 câu đầu trong bài
Chinh Phụ Ngâm (xem thí dụ 3). Nhưng cũng có trường hợp
ngoại lệ mà vẫn khá hay, chẳng hạn như 8 câu mở đầu của
Cung Oán Ngâm Khúc (xem thí dụ 2). Dù vậy, nếu giữ đúng
niêm luật, âm điệu của bài Song Thất Lục Bát sẽ du dương
hơn.
Giữ đúng niêm là tuân theo đúng theo thanh (bằng hay trắc)
như đã chú thích trong quy tắc ở trên.
Giữ đúng luật là chọn chữ đúng vần, hợp với chữ
tương ứng ở câu trên hoặc câu dưới như đã chú thích
trong quy tắc ở trên.
CÁCH GIEO VẦN:
Theo quy tắc ghi ở trên, ta có thể dễ dàng thấy chữ cuối
(T1) thuộc câu 7 ở trên vần với chữ thứ 5 (T1) thuộc câu
7 kế theo, đều là vần trắc. Chữ cuối (B1) thuộc câu 7
lại vần với chữ cuối (B1) thuộc câu 6 kế tiếp, đều là
vần bằng. Chữ cuối (B1) thuộc câu 6 lại vần với chữ
thứ 6 (B1) thuộc câu 8 và là vần bằng. Chữ cuối (B2)
thuộc câu 8 lại vần với chữ thứ 5 (B2) thuộc câu 7 ở
đoạn kế tiếp, và cũng là vần bằng.
Tương tự, chữ cuối (T2) thuộc câu 7 lại vần với chữ
thứ 5 (T2) thuộc câu 7 kế theo, là vần trắc. Chữ cuối
(B3) thuộc câu 7 lại vần với chữ cuối (B3) thuộc câu 6
kế theo, và là vần bằng. Chữ cuối (B3) thuộc câu 6 lại
vần với chữ thứ 6 (B3) thuộc câu 8 kế tiếp, và là vần
bằng. Chữ cuối (B4) thuộc câu 8 sẽ vần với chữ thứ 5
(B4) thuộc câu 7 ở đoạn kế tiếp theo (nếu có).
Cứ như thế, cách gieo vần chéo này tạo nên sự kết hợp
uyển chuyển về tiết tấu giữa cặp câu 7 (song thất) với
cặp câu 6, 8 (lục bát). Và nối kết các đoạn 4 câu song
thất lục bát lại với nhau để tạo nên nhịp điệu độc
đáo của toàn bài thơ viết theo thể loại nàỵ
Một điểm nhỏ xin lưu ý: trong câu 8 chữ, tuy chữ thứ 6 và
chữ thứ 8 cùng là vần thanh bằng, nhưng nếu chữ thứ 6
là không dấu thì chữ thứ 8 nên là dấu huyền, hay ngược
lại, để cho âm điệu của bài thơ được trầm bổng hơn.
Xin xem các thí dụ bên dưới để thấy rõ điểm nàỵ
CÁCH ĐỐI:
Không bắt buộc như trong thơ Đường luật, nhưng có thể
áp dụng trong cặp câu 7 chữ. Câu 7 ở trên đối với câu 7
ở dướị
VÀI THÍ DỤ MINH HỌA:
Để dễ hiểu, chúng ta có thể thử phân tích niêm luật
của một vài đoạn thơ bên dưới sẽ thấy rõ hơn những
điều đã giải thích ở trên.

Thí dụ 1:
Tiết Phụ Ngâm
Thiếp có chồng, chàng ĐÀ hay BIẾT,
Đôi minh châu tha THIẾT còn TRAỌ
Nghĩ tình vương vấn khít KHAO,
Ngọc này thiếp buộc áo ĐÀO thắm TƯƠỊ
Nhà thiếp ở lầu NGOÀI ngự UYỂN,
Chồng thiếp làm lính ĐIỆN Minh QUANG.
Biết chàng lòng sáng như TRĂNG,
Thờ chồng, thiếp nguyện đá VÀNG thủy CHUNG.
Trả minh châu, lệ đôi DÒNG,
Hận không lúc thiếp chưa CHỒNG gặp NHAỤ
Trần Trọng San dịch
Chú thích:
* BIẾt vần với THIẾT (vần trắc # T1)
* TRAO vần với KHAO và ĐÀO (vần bằng # B1)
* TƯƠI vần với NGOÀI (vần bằng # B2)
* UYỂN vần với ĐIỆN (vần trắc # T2)
* QUANG vần với TRĂNG và VÀNG (vần bằng # B3)
* CHUNG vần với DÒNG và CHỒNG (vần bằng # B4)
Chú ý, trong bài thơ này, 2 câu cuối cùng là lục bát. Bài
thơ này là một loại biến thể của Song Thất Lục Bát vì
không theo đúng quy tắc nêu ở trên.

Thí dụ 2:
Trải vách quế gió vàng hiu HẮT,
Mảnh vũ y lạnh NGẮT như ĐỒNG.
Oán chi những khách tiêu PHÒNG,
Mà xui phận bạc nằm TRONG má ĐÀỌ
Duyên đã may cớ SAO lại RỦỊ
Nghĩ nguồn cơn dở DÓI sao ĐANG.
Vì đâu nên nỗi dở DANG ?
Nghĩ mình mình lại nên THƯƠNG nỗi MÌNH.
Trộm nhớ thủa gây HÌNH tạo HÓA
Vẻ phù dung một ĐÓA khoe TƯƠI
Nhụy hoa chưa mỉm miệng CƯỜI
Gấm nàng Ban đã nhạt MÙI thu DUNG
(trích Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Hầu Ngô Gia Thiều)
Chú thích:
* HẮT vần với NGẮT (vần trắc # T1)
* ĐỒNG vần với PHÒNG và TRONG (vần bằng # B1)
* ĐÀO vần với SAO (vần bằng # B2)
* RỦI vần với DÓI (vần trắc # T2)
* ĐANG vần với DANG và THƯƠNG (vần bằng # B3)
* MÌNH vần với HÌNH (vần bằng # B4)
* HÓA vần với ĐÓA (vần trắc # T3)
* TƯƠI vần với CƯỜI và MÙI (vần bằng # B5)

Thí dụ 3:
Thuở trời đất nổi CƠN gió BỤI,
Khách má hồng nhiều NỖI truân CHUYÊN.
Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN,
Vì ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀỴ
Trống Trường Thành lung LAY bóng NGUYỆT,
Khói Cam Tuyền mờ MỊT thức MÂỴ
Chín tầng gươm báu trao TAY,
Nửa đêm truyền hịch định NGÀY xuất CHINH.
(trích Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm)

Thí dụ 4:
Chìm đáy nước cá LỜ đờ LẶN
Lửng da trời nhạn NGẨN ngơ SA
Hương trời đắm nguyệt say HOA
Tây Thi mất vía, Hằng NGA giật MÌNH
Câu cẩm tú đàn ANH họ LÝ
Nét đan thanh bậc CHỊ chàng VƯƠNG
Cờ tiên rượu thánh ai ĐANG
Lưu Linh Đế Thích là LÀNG tri ÂM
Cầm điếm nguyệt, phỏng TẦM Tư Mã
Địch lầu thu, đọ GÃ Tiêu LANG
Dẫu mà tay múa, miệng XANG
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê THƯỜNG trong TRĂNG
(trích Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Hầu Ngô Gia Thiều)

Thí dụ 5:
Khi Chàng Còn Chưa
Nhìn lũ trẻ vòng vòng nhạc ngựa
Nghe nhạc mưa trăn trở đất mềm
Theo đôi cánh bướm bay lên
Tà dương vạt nắng phai trên cuối chiều
Nhảy chậm lại em yêu chớ vội
Đời không dài nhạc hội còn dài
Mỗi ngày ta vội như bay
Thăm nhau chiếu lệ chẳng hay đáp lời
Ngày vất vả nghỉ ngơi thoải mái
Nhạc trăm dòng réo mãi trong tâm
Ta quên bẵng bạn bè thân
Coi như họ đã vãng phần xanh rêu
Nhảy chậm lại em yêu chớ vội
Đời không dài, nhạc hội chưa vơi
Khi ta hối hả tới nơi
Kể như phân nửa cuộc vui đã tàn
Khi vội vã lo toan quá sức
Kể như ta vội vứt gói quà
Đến từ tình nghĩa thiết tha
Vứt khi chưa mở xót xa cách gì
Đời đâu phải cuộc thi nước rút
Hãy khoan thai hưởng chút thư nhàn
Lắng nghe câu hát điệu đàn
Trước khi nhạc rứt , khi chàng còn chưạ
Hà Huyền Chi
(Phóng chuyển từ bài thơ Slow Dance, của tác giả vô danh)

Thí dụ 6:
Tự Tình Thán
Truyện trần thế trớ trêu, trắc trở
Ta thán than từ thưở trẻ thơ
Thoạt tiên, tấm tức tu tu
Tự tiên tri trước trăm thu tội tình
Trong tiềm thức, thật tình trong trắng
Tính Trời trao: thẳng thắn, tận tâm
Tiền trình tưởng thẳng tắp tăm
Tiếc thay, tích tắc tan tành thảm thê
Thân tiều tụy, tim tê tái thiệt
Thảm thương thêm, thân thuộc thanh trừ
Tiền tài: tam tộc "tiếp thu"
Thế thời thời thế tạ từ tình thâm
Thoạt trông thấy, thâm tâm tơ tưởng
Từng tháng trôi, tăng trưởng từ từ
Tình thầm trùm trọn tâm tư
Tương tư thấm thoát tam thu tính tròn
Trăng tàn tiếp trăng tròn, trăng tận
Thổn thức thầm, thơ thẩn trông trăng
Tình thầm theo tháng thêm tăng
Tâm tình tơi tả, thăng trầm. Tội thay !!
Tỏ tình thẳng tới tai thì thẹn .
Thôi thế thời: tấp tểnh tìm từ
Trải trang tình thắm thành thơ
Từ từ tỏ thực tâm tư tinh tường ......
Thủy tiểu thư thẳng thừng từ tạ
Trái tim ta tơi tả, thảm thương
Tam thu tận tụy tình trường
Tỉnh thời tự thấy tang thương tuôn trào ....
Trái tim ta trót trao Thu Thủy
Tình tan tành, thấy tủi thân ta
Tình, tiền tan tựa trăng tà
Trách Trời táo tợn trêu ta tận tình
Thôi trót thế thất tình tức tưởi
Ta trốn trần, tìm tới thiền tu
Tội tình tích trữ thiên thu
Tạm thời ta trả từ từ thế thôi ....
Truyện tình ta thế thời tận tuyệt
Tựa truyện tình tiểu thuyết tầm thường
Thực tình thì thật thảm thương
Thở than tự thán tình trường thiên thu .....

__nguồn google__

Câu trả lời:

Hải Phòng có bến Sáu Kho
Có sông Tam Bạc, có lò Xi măng Đứng trên đỉnh núi ta thề
Không giết được giặc, không về Núi Voi Thuốc lào Vĩnh Bảo
Chồng hút, vợ say
Thằng con châm đóm
Lăn quay ra giường Dù ai buôn đâu, bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm nghề
Mùng chín tháng tám nhớ về chọi trâu Sấm động biển Đồ sơn
Vác nồi rang thóc
Sấm động bên sóc
đổ thóc ra phơi Nhất cao là núi U Bò
Nhất đông chợ Giá, nhất to sông Rừng
(Thủy Nguyên) Chín con theo mẹ ròng ròng.
Còn một con út nẩy lòng bất nhân
(Địa hình Đồ Sơn ví như một con Rồng đang chầu về viên ngọc là Hòn Dáu. Sách cổ gọi núi Đồ Sơn là Cửu Long - chín rồng với câu ca trên. Con út ở đây là núi Độc, đứng riêng hẳn ra ở đầu bán đảo. Thực ra có tới 15 điểm cao từ 25m đến 129m trong dãy núi này, cao nhất là Đồn cao. Trên đỉnh núi còn những dãy tường thành, dấu vết đồn luỹ của Phạm Đình Trọng, một tướng Chúa Trịnh đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, thế kỷ 18) Đầu Mè, đuôi Úc
Giữa khúc Nụ Đăng (Tiên Lãng) My Sơn bắc ngật văn chương bút
Triều thủy nam hồi phú quí nguyên

Dịch nghĩa:

"Núi My Sơn phía bắc tạo thế văn chương
Ngọn triều phía nam đem lại nguồn giàu có"

My Sơn là xã ở Thủy Nguyên.

--- Theo haiphong.net.vn --- Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan Cá rô đầm Sét
Nước mắm Vạn Vân
Cam Đồng Dụ
Cau Văn Ú
Vú Đồ Sơn

(Câu cổ đó)

___nguồn google___