Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hà Nội , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 31
Số lượng câu trả lời 150
Điểm GP 13
Điểm SP 353

Người theo dõi (46)

Đang theo dõi (13)

Sone Yoonsic
Hà Đức Thọ
Ngọc Hnue

Câu trả lời:

Đêm đã về khuya rồi. Ngoài trời gió lồng lộng thổi. Không còn tiếng chim kêu lích chích trong tán cây. Cảnh rừng Việt Bắc âm u, tĩnh mịch quá!

Chẳng biết vì sao, tôi không ngủ được. Tôi suy nghĩ cho trận chiến nay mai, chiến dịch Điện Biên Phủ. Đang nghĩ ngợi mông lung thì tôi nghe có tiếng sột soạt rất khẽ. Tôi nhôm dậy. Là Bác ư? Khuya rồi, sao Người chưa ngủ nhi?

Bác ngồi yên lặng bên cạnh bếp lửa hồng, vẻ mặt của Bác trầm ngâm như đang suy nghĩ việc gì đó. Ngoài mái lều tranh cũ nát, mưa rơi lâm thâm, dai dẳng. Tôi ngước mắt nhìn Bác, càng nhìn, tôi càng thấy thương Bác hơn. Bác như một người cha vậy. Người cha ấy đang nhóm lửa cho tôi và đồng đội nằm ấm.

Sau đó, Bác đi dém chăn cho chúng tôi: từng người một. Như sợ các anh em giật mình, Bác nhón chân nhẹ nhàng, thật nhẹ. Bóng Bác ánh lên trước ngọn lửa, cao lồng lộng, bao trùm cả cán lều. Tôi có cảm giác mơ màng cái bóng của Bác như làm chúng tôi ấm áp hơn cả ngọn lửa hồng đang cháy hừng hực kia.

Thổn thức nỗi lòng, tôi thầm thì hỏi:

– Bác ơi, Bác chưa ngủ ạ? Bác có thấy lạnh không?

Bác nhìn tôi, mỉm cười rồi trả lời bằng một giọng ấm áp:

– Ừ, Bác chưa ngủ đâu. Chú cứ ngủ cho đẫy giấc, để mai còn đi đánh giặc nữa chứ!

dem-nay-bac-khong-ngu

Đêm nay, Bác không ngủ vì Bác là người luôn lo cho mọi người hơn bản thân

Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt, nhưng vẫn bồn chồn. Tôi năm mà vẫn lo Bác ốm, lòng tôi cứ bộn bề. Chiến dịch còn dài lắm! Rừng Việt Bắc lám dốc, lắm ụ. Nếu Bác cứ không ngủ suốt thế này, thì Bác lấy sức đâu để mà đi? Thế rồi tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Lần thứ ba tôi thức giấc thì đã canh tư. Nhìn thấy Bác vẫn đang ngồi, tôi hoảng hốt, giật thót mình. Bác vẫn chưa ngủ ư? Trời sắp sáng rồi!!! Tôi vội vã:

– Bác ơi, trời sắp sáng rồi, Bác hãy ngủ để sáng mai có sức mà đi!

Vẫn bằng giọng dịu dàng, Bác nói với tôi:

– Chú cứ ngủ đi, còn Bác thức thì cứ mặc Bác. Bác không ngủ được đâu! Bác đang nghĩ về đoàn dân công, trời mưa như thế này, chắc họ lạnh lắm. Bác chỉ mong trời sáng cho nhanh thôi. Không biết các cô chú ấy có sao không?

Tôi chợt hiểu ra, Bác thức vì chuyện ấy. Bác không chỉ chăm lo cho chúng tôi mà còn lo lắng cho cả những người ở xa chưa hề được gặp Bác. Tấm lòng của Bác thật cao cả. Lòng tôi vui sướng tràn trề và tôi quyết định thức luôn cùng với Bác.

Đêm nay, Bác không ngủ vì Bác là người luôn lo cho mọi người hơn bản thân. Bác là người Cha già của nhân dân Việt Nam – Vì Bác là Hồ Chí Minh.

Ticxk cho mình nha!vui

Câu trả lời:

Ngô Quyền, vị anh hùng dân tộc sinh ngày 12 tháng 03 năm Đinh Tỵ (897) ở ấp Đường Lâm (nay là thôn Cam Lâm xã Đường Lâm thuộc thị xã Sơn Tây tỉnh Hà Tây) là con cụ Ngô Mân lúc đó làm Châu Mục ở quận Châu Phong, cụ bà là người hiền đức được mọi người kính nể.

Từ thửa nhỏ, ông được nuôi dưỡng trên quê hương truyền thống anh hùng, lớn lên được luyện tập cung, kiếm, võ nghệ tinh thông, đèn sách văn thơ đều tỏ ra thông minh có sức khỏe, sức mạnh nổi ngàn cân, văn võ kiêm toàn, tiếng tăm lẫy lừng khắp nơi.

Năm 20 tuổi cha mẹ đều mất (917), ba năm sau (920) ông kết duyên cùng bà Dương Phương Lan, người con gái có tài sắc lại tinh thông võ nghệ ở miền Thượng Phúc (huyện Chương Mỹ) thuộc tỉnh Hà Tây. Từ nơi quê hương ông đem ra đình vào đất Ái Châu (Thanh Hóa) theo ông Dương Đình Nghệ là tiết độ sứ. Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ tin yêu, nhận làm con nuôi và gả con gái cho ông là Dương Thị Như Ngọc và giao cho ông coi giữ vùng đất Ái Châu – Thanh Hóa.

Trước cảnh đất nước bị quân thù xâm lấn, nhân dân đã bao đời bị thống trị, lầm than cực khổ. Ngô Quyền luôn luôn suy tính để tìm cách đánh đuổi bọn xâm lược cứu nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than. Rồi từ đó ông dốc lòng dựng cờ cứu nước, xây thành đắp lũy, tích trữ lương thảo, chiêu mộ anh tài. Chẳng bao lâu các anh hùng nghĩ sĩ khắp nơi kéo về tụ nghĩa ngày một đông, tiếng tăm lẫy lừng khắp nơi.

Tháng 03 năm Đinh Dậu (937) sau khi Kiều Công Tiễn đem lòng phản nghịch giết chết ông Dương Đình Nghệ để đoạt chức tiết độ sứ, nên khắp nơi lòng người đều oán ghét. Ngô Quyền vô cùng căm giận, liền bí mật kéo quân từ Ái Châu ra đóng ở vùng Hải Phòng chiêu một thêm binh lực, lập đại bản danh ở vùng Lương Sâm, ra công bố trí thành lũy luyện tập binh sĩ chờ ngày ra quân diệt trừ quân tham bạo.

Mùa thu năm Mậu Tuất (938), trước khí thế của ba quân và lòng mong đợi của nhân dân, Ngô Quyền cùng người em vợ là Dương Tam Kha đem 5 vạn quân đi đánh Kiều Công Tiễn ở Giao Châu. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Kiều Công Tiễn đã bí mật hèn nhát cho tay sai đem vàng bạc châu báu sang đút lót vua Nam Hán xin cứu viện.

Vua Nam Hán lúc đó là Lưu Yểm muốn nhân cơ hội này sang cướp nước ta, bèn sai con trai là Vạn Vương Hoàng Thao chuẩn bị binh lực sang xâm lược nước ta và phong sẵn chức cho con là Giao Vương.

Cuối năm 938, Hoàng Thao thống lĩnh đội thủy quân gồm 20 vạn quân và hàng ngàn chiến thuyền theo bờ biển vùng đông bắc ồ ạt tiến vào nước ta. Còn Lưu Yểm mang quân đóng giữ Hải Môn (thuộc tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc) để sẵn sàng tiếp ứng cho Hoàng Thao.

Nắm vững âm mưu của quân giặc, Ngô Quyền bí mật sai người đi giết Kiều Công Tiễn, một mặt ông bí mật hạ lệnh cho quân sĩ cùng với nhân dân địa phương vùng Thủy Nguyên – Yên Hưng chặt gỗ đẽo nhọn rồi đóng vào nơi cửa song Bạch Đằng hiểm yếu chảy ra biển. Đây là một trận địa hết sức hiểm trở, một mặt ông sai các tướng lĩnh đem quân bố trí trận địa ở hai bên bờ song, còn mặt khác ông cho chuẩn bị 200 chiến thuyền nhẹ tới chỗ giặc đóng quân để khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy lừa chiến thuyền của giặc lọt vào trận địa mai phục để phản công.

Tháng 10 năm đó (938) lợi dụng nước thủy triều dâng lên, lại có gió mùa đông bắc, đoàn chiến thuyền của giặc do tướng Hoàng Thao chỉ huy ồ ạt tiến vào vịnh Hạ Long, vào sông Bạch Đằng gặp thuyền chiến.

Câu trả lời:

Có lẽ khi nói đến ngôi trường là một khái niệm không hề xa xôi đối với tất cả chúng ta.Ai cũng có một ngôi trường in sâu trong tam trí mình mà khi đi đâu ta cũng không thể nào quên được mái trường thân thương ấy.

Đối với tôi ngôi trường tiểu học Lê Lợi là ngôi trường mà tôi rất yêu quý. Toàn bộ ngôi trường được nhuộm một màu vàng trông rất đẹp và khi ánh nắng chiếu xuống làm cho nó trở nên rực rỡ hơn. Khi đến gần bạn sẽ nhìn thấy một chiếc cổng trường được tô đậm dòng chữ màu xanh “trường tiểu học Lê Lợi”. Dù đã nhiều năm rồi nhưng cánh cổng ấy vẫn đẹp lắm vẫn hiên ngang như chào đón tất cả mọi người đến với trường. Cánh cổng màu xanh của trường đã cũ mỗi khi bác bảo vệ mở ra kéo vào là nó lại kẽo kẹt nghe thật vui tai. Chiếc cổng lúc nào cũng mở rộng như một người mẹ luôn chào đón chúng tôi bước vào the giới của kiến thức của những lời hay lẽ phải. Đi qua cánh cổng chính là một cái chòm nhỏ, đó là nơi mà bác bảo vệ làm việc và kiếm soát học sinh. Bước vào trong ngôi trường nguy nga tráng lệ nhưng vẫn không thiếu những nét cổ kính trang nghiêm .

Trường đã được xây dựng cách đây hơn ba mươi năm nên đã khá cũ nhưng chính cái cổ kính đó khiến cho ngôi trường trở nên đẹp hơn lạ lẫm hơn với tất cả mọi người khi đến đây. Sân trường mới được lát lại bằng xi măng nên nhìn trắng xóa. Vào trường bạn sẽ được đi qua một hàng cây phượng dài xõa bóng trông như bước vào một thiên đường của thiên nhiên. Lũ trẻ chúng tôi trêu nhau hàng cây đó là hàng cây tình yêu. Chúng tôi cũng chẳng biết nó có từ bao giờ tôi chỉ biết bố tôi nói là từ khi bố đi học đã có nó rồi. Những chú chim thi nhau chơi trốn tìm trên những cành phượng hót râm ran làm cho khung cảnh trở nên lãng mạn và lung linh một cách thần kì. Ngôi trường được xây dựng hai tầng nhưng chia làm hai khu nhà đó là một khu dành cho lớp một hai ba một khu dành cho lớp bốn và lớp năm. Các lớp được trang trí những hình ảnh rất là ngộ nghĩnh mỗi phòng học có bàn ghế kê đàng hoàng với bảnh đen xinh xắn. Ở các lớp đều được treo ảnh bác hồ và năm điều bác hồ dạy rất ngay ngắn,dưới đó là bàn giáo viên .

Thật tuyệt khi bước vào lớp 3a của chúng tôi. Không gian thật đẹp và thân thiện, đó chính là ngôi trường ấm áp của chúng tôi.Sân trương chính là nơi mà chúng tôi chào cờ và mọi tổ chức sinh hoạt của chúng tôi với trường đều được diễn ra ở đây. Trường có rất nhiều cây cổ thụ to lớn tỏa bóng mát xuống dưới những hàng ghế đá có những cô cậu học trò chăm chỉ đang ôn bài.Sân trường cũng là nơi mà mỗi khi ra chơi nó lại được tô những sắc màu của các trò chơi mà chúng tôi vẫn thường hay chơi. Phía bên vách của khu nhà cho học sinh lớp bốn và lớp năm là hai phòng máy để chúng tôi học tin học.

Vào những ngày khai giảng hay những ngày nhà giáo Việt Nam là chúng tôi lại được đón những cựu học sinh của trường khiến chúng tôi rất vinh dự.Tôi rất tự hào vì mình là một học sinh của một ngôi trường mang tên một người anh hùng dân tộc Lê Lợi.

Ngôi trường tiểu học Lê Lợi đã in dấu quãng đời tuổi thơ tươi đẹp của tôi. Dù đi xa đâu tôi cũng không thể quên được mái trường này.

Câu trả lời:

Đầu làng tôi có những khóm tre xanh mát, không biết những khóm tre ấy có từ đời nào, nhưng chỉ biết rằng chúng rất thân với người dân quê tôi.

Nhìn từ xa, lũy tre làng như một bức tường thành bao quanh thôn xóm. Tới gần, mới thấy bức tường thành ấy được tạo bởi nhiều cây tre, gầy guộc, khẳng khiu. Cây này nương tựa cây kia, bất chấp nắng mưa bão dông, vươn lên trên cao, đón nhận ánh sáng mặt trời. Các cụ già trong làng thường bảo: “Cây tre cũng như người dân quê mình một nắng hai sương, chịu thương chịu khó, bất khuất kiên cường”.

Bầu trời trong xanh, gió thổi nhè nhẹ, lá tre lại xào xạc tạo nên một bản giao hưởng miền quê mà ai đó phải yêu miền quê mà ai đó phải yêu miền quê lắm mới có thể cảm nhận được. Trời đang nắng nóng, boowngx nhiên mây đen ùn ùn kéo đến lan kín bầu trời. Ông trời như mặc chiếc áo đen ra trận, cây tre như một người chiến sĩ oai vệ đang chuẩn bị chiến đấu.

Gió càng ngày càng thổi mạnh. Taahn tre lắc lư, ngọn tre cong vút, những cành tre đan vào nhau, chống chọi với cơn bão điên cuồng. Bỗng chớp loé sáng rực như có một chiếc bút kì lạ đã vẽ lên một nét vẽ rồi vụt tắt. Ông sấm được thể ra oai, ghé xuống sân cười khanh khách, có lúc phát ra tiếng đùng đoàng như mìn phá đá. Cây tre không hề sợ, nó thật oai hùng, kiên cường, dẻo dai và bất khuất biết bao!

Lộp bộp!Lộp bộp! Trời đã đổ mưa. Hạt mưa lớn và thưa rơi trên mặt đất. Chỉ vài phút sau, đất trời trắng xoá như màn mưa dày đặc. Gió thổi mạnh, sấm chớp và mưa tuôn xối xả như muốn quật ngã rặng tre, rặng tre chao đảo, vặn vẹo nghiêng ngang trong giông bão. Luỹ tre thật kiên cường, nó giúp người dân chặn nước lũ về làng để bảo vệ mùa màng. Tiếng sét đánh ần ầm, gió không ngừng thổi, thật là một cơn bão lớn. Những cây hoa bị gió thổi làm rụng hết cánh hoa, gãy cành. Cây bàng mới trồng trước nhà bị gió thổi đổ gục. Vậy mà cây tre vẫn hiên ngang, ngẩng mặt nhìn bầu trời xám xịt, đầy mây đen. Nó kiên cường, hiên ngang chống chọi quyết liệt với cơn bão dữ dội, không chịu khuất phục. Cuối cùng, trận giông bão đã dứt, vậy là luỹ tre làng tôi đã chiến thắng được cơn bão ấy.

Sau cơn bão, khong gian thật thoáng đãng, không khí trong lành, mát rười rượi. Các con vật đều mừng rỡ, khoẻ khoắn hơn. Con người tiếp tục làm việc, mọi vật như thay đổi. Riêng luỹ tre có một sự thay đổi kì diêu, tươi mới, màu sắc xanh hơn, những búp măng như cao hơn, tràn đầy sức sống.

Luỹ tre là hình ảnh tượng trưng cho con người Việt Nam không chịu khuất phục, kiên cường , bất khuất chống lại thiên tai, lũ lụt, chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Tôi rất yêu quý luỹ tre làng tôi.

Tick cho mình nhé!ok

Câu trả lời:

Ngô Vương , là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.

Sinh năm 897 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng"[1]. Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.

Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua"[1], là vị Tổ trung hưng[2] của Việt Nam.