Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 28
Số lượng câu trả lời 343
Điểm GP 44
Điểm SP 265

Người theo dõi (66)

Thanh Trúc
Tae Kim
Phuong Nguyen

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Trong khoảng đời lưu lạc của Kiều, Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng thông cảm, chia sẻ với nàng. Ngay từ đoạn đầu đời của bước đường lưu lạc “trước lầu Ngưng Bích”, nàng phải đối diện với chính mình trong nỗi đau bi kịch. Bi kịch nội tâm của phép tả cảnh ngụ tình. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một thành tựu đặc sắc của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.

Thúy Kiều thông minh, nhạy cảm, tài sắc, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rũ màn che”. Nhưng bất ngờ tai vạ lại ập đến với gia đình nàng. Nàng buộc phải bán mình chuộc cha, trao cả cuộc đời cho Mã Giám Sinh lưu manh, và rồi lại rơi vào chốn lầu xanh của Mụ Tú, cái lầu Ngưng Bích mà mụ dành cho Kiều ở thật ra là cái cạm bẫy để rồi đưa nàng vào cuộc đời của một cô gái lầu xanh. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích là dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp sửa phải gánh chịu.

Đoạn thơ trích là một bức tranh buồn, một nỗi buồn xót xa của thân gái dặm trường phải đối với bao nghiệt ngã ở chính mình - một nỗi buồn xa xót, thê lương, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người; một nồi buồn của con người hoàn toàn cô đơn giữa khung cảnh thiên nhiên vắng lặng.

Mở đầu đoạn thơ là khung cảnh bi kịch nội tâm Thúy Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Chỉ vài nét chấm phá của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã gợi lên một tâm trạng cô đơn, trơ trọi của Thúy Kiều trước không gian mênh mông vắng lặng. Từ lầu cao ngước mắt xa trông, nàng chỉ thấy trong tầm mắt dáng núi mờ xa và một mảnh trăng gần. Bức tranh thiên nhiên thì đẹp, nhưng lòng người thì buồn, nên cảnh cùng đeo sầu. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhìn xuống mặt đất thì cảnh vật bốn về xa trông bát ngát, bên thì “cát vàng cồn nọ” nhấp nhô, lượn sóng, bên thì “bụi hồng dặm kia” thưa thớt thoáng hiện dưới ánh trăng vàng. Bức tranh thiên nhiên dù nên thơ, thoáng đãng, nhưng lại rất tĩnh - cái tình lặng gần như tuyệt đối ấy, cái mênh mông vắng lặng ấy lại càng khắc sâu thêm nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của nàng. Để rồi nỗi cô đơn ấy lại càng đấy lên đến mức tuyệt đối:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.

Hình ánh “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian và không gian hãm con người nơi đất lạ, miền xa. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya” để mà tự thổn thức, tự hoài niệm. Thật oái oăm cho cảnh, “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Một nửa là tâm sự của Thúy Kiều và nửa kia là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích. Hai nỗi ấy đan xen vào nhau, làm choáng ngợp lòng Kiều, khiến Kiều đau đớn bơn, tan tác hơn. Nàng đắm chìm trong nỗi buồn cô đơn, tuyệt vọng.

Trong nỗi buồn cô quạnh đó, hình ảnh người thân lại hiện về. Nàng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được Nguyễn Du miêu tá thật xúc động và sâu sắc trong lời độc thoại nội tâm.

Câu trả lời:

Thuyết minh về thể thơ lục bát

Thơ lục bát là một thể thơ cách luật cổ điển thuần túy việt nam.Đơn vị cơ bản là một tổ hợp gồm hai câu sáu tiếng và tám tiếng ,số câu không hạn định.Về gieo vần, chủ yếu là vần bằng, và cứ mỗi cặp hai câu mới đổi vần, tiếng cuối câu sáu vần với tiếng thứsáu của câu tám, rồi tiếng cuối câu tám lại vần với tiếng cuối câu sáu sau, như thế ngoài vần chân có cả ở hai câu 6 8 ,lại có cả vần lưng trong câu tám:Thành tây có cảnh Bích CâuCỏ hoa họp lại một bầu xinh saoĐua chen thu cúc xuân đàolựu phun lửa hạ , mai chào gió đông(Bích Câu kì ngộ)Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu ,thứ tám phải là bằng,nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:Một cây làm chẳng nên nonBa cây chụm lại nên hòn núi caoTrong thơ lục bát biến thể, những qui định trên có thay đổi chút ít,trước hết là số chữ có thể tăng thêm , và vần lưng tất nhiên cũng xê dịch theo:tiền bạc ông lĩnh không biết bao cơông làm quan giữa huyện dân có ăn nhờ chi ôngVề phối thanh, tiếng thứ hai có thể là thanh trắc,nhất là ở câu sáu có tiều đối:dù mặt lạ , đã lòng quen(bích câu kì ngộ)Ngoài ra có thể gieo vần trắc, hệ thống bằng trắc trong tổ hợp hai câu sáu tám, do đó cũng thay đổi:tò cò mà nuôi con nhệnngày sau nó lớn nó quện nhau đivần lưng có thể ở tiếng thứ hai,nhất là ở tiếng thứ tư, và lúc đó tiếng thứ tư đổi qua thanh bằng, và tiếng thứ sáu tiếp theo phải đổi sang thanh trắc:thằng tây mà cứ vẩn vơcó hổ này chờ chôn sống mày đây( tố hữu, phá đường)núi cao chi lắm ai ơinúi che mặt trời chẳng thấy người thươngthể thơ lục bát phản ánh và cô kết trung thành những phẩm chất thẩm mĩ của tiếng việt,với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp giản dị mà biến hóa vô cùng linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó rất dồi dào khả năng diễn tả.

Câu trả lời:

Trong nền văn học đồ sộ của Việt Nam, để làm nên các tác phẩm thực sự có giá trị không thể kể đến công lao của các hình thức thơ mà các nhà thơ, nhà văn đã lựa chọn làm chất liệu cho tác phẩm của mình. Nếu nói nội dung là phần hồn của bài thơ, bài văn thì hình thức thơ lại được xem là phương tiện truyền tải để những nội dung ấy, quan niệm của tác giả có thể đến được với bạn đọc. Một trong những thể thơ được xem là mang đậm màu sắc của dân tộc Việt Nam có thể kể đến là thể thơ Lục Bát.

So với nền văn học già lâu đời như nền văn học Trung Hoa, nền văn học Việt Nam có thể coi là non trẻ hơn. Nhưng qua bao thế hệ người Việt Nam luôn có ý thức trong việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, sau đó tiếp thu, chọn lọc một cách có sáng tạo vào Việt Nam, sự chọn lọc này hoàn toàn sáng tạo, bởi người Việt Nam ta chỉ tiếp thu những cái phù hợp nhất với quốc gia, dân tộc mình, và sự kế thừa đó không phải sao chép mà là sáng tạo. Nhìn lại quá trình tiếp thu ấy ta có thể thấy được bản lĩnh dân tộc của con người Việt Nam.

Xét về thể loại và các hình thức thơ trong văn học, người Việt Nam bên cạnh tiếp thu của người Trung Hoa như thể thơ Cổ Phong hay thơ Đường Luật. Bên cạnh đó, ông cha ta cũng sáng tạo riêng cho dân tộc mình những thể thơ độc đáo, mang đậm màu sắc, văn hóa của dân tộc Việt Nam, như thể thơ Song thất lục bát hay thể thơ Lục bát đã trở nên vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam. Trong đó, thể thơ Lục bát được nhiều nhà thơ lựa chọn làm chất liệu để xây dựng nên các tác phẩm văn chương của mình, cũng là xây dựng nên những bài văn mang đậm tinh thần dân tộc nhất.

Thuyết minh về đặc điểm của thể thơ lục bát

Thuyết minh về đặc điểm của thể thơ lục bát

Thơ lục bát là thể thơ bao gồm có hai phần câu sáu ( câu lục) và câu tám (câu bát) nối tiếp nhau. Thông thường một bài thơ lục bát thường được mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Về số lượng câu trong một bài thơ lục bát không hề bị giới hạn nghiêm ngặt như các bài thơ đường luật hay thể thơ song thất lục bát. Một bài thơ lục bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như:

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”

Hoặc cũng có thể kéo dài ra hàng nghìn câu thơ, mà điển hình nhất mà ta có thể kể đến, đó chính là kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du ( gồm 3253 câu, trong đó gồm 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số lượng câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và ý đồ mà nhà văn muốn truyền tải đến những độc giả.

Về cách gieo vần, thơ Lục bát tuy không bị giới hạn bởi những luật lệ nghiêm ngặt như thể thơ Đường luật nhưng vẫn phải đảm bải những yếu tố cơ bản. Cụ thể là trong một bài thơ Lục bát thì câu thơ cuối của câu lục phải vần với câu thơ thứ sáu của câu bát. Tương tự, câu cuối của câu bát phải hiệp vần với câu cuối của câu lục. Có thể lấy một ví dụ trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu như:

“Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Những câu thơ trên thể hiện được tình cảm thiết tha, gắn bó của nhà thơ Tố Hữu với chiến khu Việt Bắc. Nhưng ở đây ta quan tâm đến cách gieo vần của bốn câu thơ này. Như ta thấy, câu thơ cuối của câu lục kết khúc là chữ “ta” thì trong câu thơ thứ tám của câu bát được hiệp vần bằng từ “tha”. Tương tự, câu bát kết thúc bằng vần “ông” thì câu cuối của câu lục lại được hiệp vần bằng từ “không”. Chính vì đảm bảo những quy tắc trên mà những câu thơ lục bát đọc lên rất dễ nhớ, dễ hiểu, dù đọc một lần thì người đọc cũng có thể có thể đọc lại.

Về thanh điệu của bài thơ Lục bát ta có thể thấy, chữ thứu hai và chữu thứ sáu của câu bát thì đều là vần bằng, nhưng yêu cầu đặt ra ở đây là chúng không được cùng một thanh. Nếu thứ thứ sáu là thanh không có dấu , hay còn gọi là phù bình thì chữ thứ tám phải thuộc thanh trầm bình. Ví dụ cụ thể như trong bài ca dao sau:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

Như vậy, ta có thể thấy một cách khái quát về định nghĩa cũng như những đặc điểm, những luật lệ cơ bản trong một bài thơ lục bát. Qua đó ta cũng phần nào hiểu được cách mà các nhà thơ sáng tạo ra một tác phẩm văn chương, đó là cả một quá trình, vừa thể hiện được tài năng, vừa thể hiện được tư duy nhanh nhạy của các thi sĩ.

Câu trả lời:

Suốt chiều dài Tổ quốc, từ mục Nam Quan cho tới mũi Cà Mau đâu đâu cũng có rừng. Những cánh rừng đại ngàn Tây Bắc, Việt Bắc, Trường Sơn,miền Đông Nam Bộ… Những khu rừng nguyên sinh Cúc Phương, Cát Tiên, Bạch Mã, Cần giờ, U Minh… là nguồn tài nguyên thiên nhiên quí giá đã tồn tại từ bao đời nay. Tục ngữ có câu “ Rừng vàng, biển bạc”, quả là rừng đã đem lại cho con người những lợi ích lớn lao. Con người không thể sống thiếu rừng, cho nên bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, rừng gắn bó thân thiết với con người:
“ Núi giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
( Tố Hữu)
Núi rừng Việt Bắc đã trở thành thủ đô của cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp.Núi rừng Trường Sơn với con đường mòn Hồ Chí Minh đã trở thành huyền thoại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đau thương và oanh liệt.
Trong thực tế, ai cũng biết rừng là nơi cung cấp nguyên liệu làm giấy, xây dựng nhà cửa và vật dụng trong gia đình. Thậm chí, phút cuối của đời cũng nằm trong mấy tấm gỗ của rừng…Cảnh quang đẹp đẽ của rừng cùng với không khí trong lành là cơ sở cho những tua du lịch xanh cho thỏa trí tò mò mà biết bao người muốn khám phá, đem lại cho ta những phút thư giãn tuyệt vời sau những ngày làm việc, học tập căng thẳng.
Rừng còn là kho dược liệu vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Các loại cấy quý hiếm có thể trị được các bệnh nan y thường có trong rừng sâu.Ngoài ra,từ những cảnh rừng già, rừng nguyên sinh ấy còn là nơi nuôi dưỡng của các loài vật quý phục vụ cho con người như hổ,báo, hươu,nai… và cả những động, thực vật nằm trong sách đỏ cũng chọn rừng làm nơi sinh sống.
Nhưng quan trọng hơn hết, rừng chính là môi trường cho loài người, các quá trình quang hợp của cây xanh liên tục xảy ra, cây hút khí cacbonic và nhả ra khí Oxi, một thứ rất cần thiết cho cuộc sống. Đơn giản hơn, rừng chính là “ nhà máy lọc bụi tối tân nhất”. Rừng điều tiết khí hậu. Rừng là lá chắn vững chắc nhất, là rào cản đầu tiên trước mọi biến động thiên tai. Rừng cản lũ, lụt, rừng chống sa mạc hóa, rừng ngăn cát, rừng giữ đất giữ nước…
Rừng bị tàn phá sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày. Diện tích rừng của nước ta ngày càng bị thu hẹp một cách đáng lo ngại, một phần bởi nạn “lâm tặc” phá rừng lấy gỗ quý, làm giàu bất chính, một phần bởi sự kém hiểu biết của người dân địa phương phá rừng lấy đất trồng trọt. Cũng cách làm thô sơ, lạc hậu như đốt rừng, làm nương rẫy, đốt ong lấy mật… chỉ sơ ý một chút là gây ra tổn hại khôn lường, hàng ngàn hécta rừng nguyên sinh bị cháy rụi, hàng ngàn động vật bị tiêu diệt, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ… thế mấy trăm năm nữa mới khôi phục lại được những cánh rừng như thế ?
Khai thác rừng để phục vụ cuộc sống con người là việc làm cần thiết nhưng muốn hưởng lợi ích lâu dài thì con người phải biết bảo vệ rừng. Cùng với việc chặt cây lấy gỗ, chúng ta phải biết trồng cây gây rừng.Khai thác lâm sản rừng phải có kế hoạch, có mức độ, nếu không, chẳng mấy chốc mà tài nguyên rừng cạn kiệt. Khi đó, thử hỏi con người lấy gì để chống đỡ với gió, với cát, với nước lũ … và lấy đâu ra “ rừng vàng” cho con cháu mai sau ?!
Rừng thực sự bị đe dọa. Cái chết của những cánh rừng đang báo động hiểm họa với nhân ***** nên bảo vệ rừng là bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ chính môi trường sống của chính con người. Hi vọng màu xanh của rừng sẽ trở lại. của chúng ta được trong lành và con tim chúng ta sẽ nghe được nhạc rừng từ những giọng chim ca …

Câu trả lời:

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả quê ở Nam Xương. Vừa mới đến tuổi đôi mươi mẹ tôi bèn cưới vợ cho. Vợ tôi tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Tôi có tính hay ghen đối với vợ tôi phòng ngừa thái quá. Vợ tôi cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Tôi tuy con nhà dòng nhưng không có học tên đã ghi trong sổ khai tráng phải đi sung binh loạt đầu. Lúc tôi ra đi mẹ có dặn rằng:

Nay con phải tạm đi tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh đừng nên thăm miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn để dành người ta, có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống đất vâng lời dạy. Vợ thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:

Lang quân đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.

Vợ tôi nói đến đây mọi người đều đẫm lệ.

Rồi đó chén đưa vừa cạn dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ vợ tôi đương có thai. Sau khi tương biệt được mười ngày thì sinh được một đứa con trai đặt tên là Thằng Đản.

Ngày qua tháng lại thấm thoát đã nửa năm. Mẹ tôi không phải không muốn đợi tôi về mà là tuổi già sức yếu cộng thêm nhớ con mà sinh ốm. Vợ tôi hết sức thuốc thang chăm lo chu đáo nhưng mẹ đã không qua khỏi. Vợ tôi hết lời thương xót phàm việc mà chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

Qua sang năm sau giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Tôi mới về thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Tôi hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song nó không chịu gào khóc. Tôi dỗ dành:

Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!

Con tôi nói:

Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi ngạc nhiên gạn hỏi nó nói:

Khi ông chưa về đây thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi mẹ ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Tính tôi hay ghen nghe con nói vậy tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.

Về đến nhà tôi mắng vợ một bữa cho hạ giận, Vợ tôi khóc mà rằng:

Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Xum họp chưa thỏa chăn gối, phân phôi vì đọng việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…..Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Tôi vẫn không tin. Vợ tôi gạn hỏi việc kia ai nói nhưng tôi vẫn không nói ra là lời con nói. Tôi thường mắng mở và đuổi vợ ra khỏi nhà, bà con hàng xóm đến can cũng không có tác dụng gì.

Bị tôi đánh đuổi ra khỏi nhà vợ tôi bị rơi vào ngõ cụt. Vợ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi ra Hoàng Gia ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho.

Nếu đoan tranh giữ tiết một lòng một dạ với chồng con thì khi chết xin được làm Mỵ Nương, cỏ Ngu Mỹ. Nếu lừa chồng dối con thì nguyện làm mồi cho cá. Nói xong vợ tôi gieo mình xuống sông mà chết.

Tuy tôi rất tức giận vì nàng không thủy chung nhưng nàng chết đi tôi cũng vô cùng thương tiếc tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình gà trống nuôi con vắng vẻ lạnh lẽo đêm đến tôi bấc đèn tàn, không sao ngủ được chợt con tôi nói rằng:

Cha Đản lại đến rồi!

Tôi hỏi đâu. Nó chỉ vào bóng tôi trên vách.

Thì ra tôi đi vắng vợ tôi thường đùa chỉ bóng mình mà bảo là cha. Bấy giờ tôi mới hiểu ra nỗi oan của vợ nhưng chẳng làm gì được nữa.

Cùng làng với vợ tôi có người tên là Phan Lang một đem chiêm bao thấy người con gái áo xanh , đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy nhặt được một con rùa hắn ta nhớ đến giấc mơ hôm qua bèn phóng sinh cho con rùa. Phan Lang đi đánh cá và bị lật thuyền thây hắn trôi dặt và được một cô Vũ Nương cứu sông. Cô ấy bảo là người cùng làng với Lang, Vũ Nương sai sứ giả đưa Phan Lang lên khỏi nước, Vũ Nương cũng gửi một chiếc hoa vàng và dặn:

Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một dàn giải oan ở bến sông,đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.

Về đến nhà Phan đem kể lại chuyện này cho tôi ban đầu tôi cũng không tin nhưng khi nhậ được chiếc hoa vàng tôi mới tin. Đây thật sự là vật dụng của vợ tôi.

Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến sông. Vợ tôi hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc hiện.Tôi vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào:

Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa.

Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chông mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lâm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình. Đã là vợ chông thì hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được.

Câu trả lời:

Đề 1:

..., ngày...tháng...năm...

Như thân mến!
Đã lâu lắm rồi, bây giờ tớ mới có thể ngồi đây và viết thư cho cậu.

Dạo này, cậu vẫn khỏe chứ? Cuộc sống hiện nay của cậu thế nào? Chúng mình đã gắn bó với nhau bao năm, giờ cậu đi xa, tớ nhớ cậu nhiều lắm. Tuy chúng ta đã trưởng thành, đã lớn lên, biết tự đứng trên đôi chân của chính mình, nhưng tớ vẫn không sao quên được những kỷ niệm của tuổi học trò ngây thơ đáng yêu. Cậu có cho tớ là dở hơi không khi giờ sắp trở thành một bà già mà vẫn mộng mơ như tuổi 18 …

Cậu biết không, hè vừa rồi, tớ vừa về thăm ngôi trường cũ đấy. chúng mình đã xa nó hơn 20 năm rồi còn gì. Không hiểu sao, lúc đến gần trường tớ cảm thấy hồi hộp đến kì lạ. Đôi tay tớ run run và đôi chân thì bỗng như khựng lại, không thể bước tiếp dù chỉ là một đoạn ngắn để tiến sát ngôi trường hơn. Tớ cảm giác như mình đang sống lại những ngày đầu tiên vào cấp II. Tớ và cậu, hai đứa cứ nắm chặt lấy tay nhau mà kinh ngạc trước vẻ đẹp đến “lung linh” của ngôi trường mới. Đường đi vào trường là hai hàng cây xà cừ xanh rợp bóng mát. Bên trong là hai dãy lớp ở hai bên. Giữ sân, tớ nhớ lúc ấy là kì đài, hai bên còn có hai cây thông và các khóm hoa hồng, hoa cúc được trồng theo hàng thẳng tắp. Đằng sau là phòng hội đồng, phía sau nữa là khu nhà tập thể cho các cô giáo, thầy giáo ở. Kế bên trường còn có một cái ao rộng lắm. Cứ mỗi lần mưa to, nước ao tràn lên, ngập cả cổng trường, chúng mình phải lội bì bõm …

Sau hai mươi năm, ngôi trường giờ không còn chật hẹp và nhỏ bé nữa. Không còn cái cảnh học sinh chạy nhảy chơi đùa mà bụi đất cứ mù lên hòa vào nắng đỏ úa của buổi chiều hôm. Trường THCS thị trấn II giờ đã có đến bốn dãy nhà hai tầng. Có những cây long não to và đẹp lắm Như ạ, khéo phỉa đến hai người ôm đấy chứ. Tớ cảm thấy thật sự bất ngờ về sự thay đổi đó. Nhưng cũng phải thôi, dã hai mươi năm rồi còn gì. Chẳng lẽ, ngôi trường cứ cũ kĩ và nhỏ bé mãi hay sao.

Tớ đã đi hỏi thăm và được biết: thầy Thắng, thầy Quang, cô Hòa, cô Hải, cô Minh đều đã về hưu cả. Chắc cô Minh tóc đã bạc trắng cả đầu. Chẳng biết, cô có còn nhớ những đứa học sinh khóa bọn mình không. Những học trò ngịch ngợm khiến cho cô phải than phiền nhiều. Cậu còn nhớ không, hồi ấy lớp chúng mình hay quậy phá nhất trường, luôn là tâm điểm của đủ mọi trò nghịch ngợm. Ấy vậy mà sang năm cuối cấp, mặt đứa nào cũng đầy những lo âu, cố cười, cố nói để quên đi những giờ phút cuối cùng ấy. Rồi đến buổi liên hoan chia tay, chẳng đứa nào nói ra nhưng tớ biết bọn nó đang mếu máo và muốn khóc nhiều lắm. Bốn năm gắn bó với trường, với lớp, với bạn bè, thầy cô, bảo sao mà không nhớ, không thương được chứ. Những trang lưu bút cứ truyền tay nhau không dứt. Những trang nhật ký lớp cười đến rụng răng mà bây giờ cũng đã trở thành kỉ niệm. Chao ôi! Cái thời ấy sao bọn mình ngây thơ và trong sáng thế. Nỗi buồn của tuổi học trò, niềm vui của học trò là những ngôi sao xa trên bầu trời xanh thẳm, luôn ánh lên vẻ đẹp lung linh vĩnh hằng …

Tớ bước chân vào trường mà thấy cảm thấy ấm áp thân thương kì lạ. Chỗ này đây, trước kia là nơi bọn mình hay chơi nhảy dây, chỗ kia chơi đuổi bắt, đánh cỏ gà … Tớ vẫn còn nhớ câu của cậu viết trong lưu bút: “ Tuổi học sinh lung linh và nhiều màu sắc như bong bóng xà phòng. Nó đẹp thật đấy nhưng lại dễ vỡ đến vô cùng”. Đúng vậy, nhưng tớ sẽ không để những kỉ niệm ấy tan biến như bong bóng đâu, tớ sẽ mãi giữ gìn nó như một viên ngọc lung linh và đẹp đẽ nhất của một đời người.

Trong thư, tớ có gửi kèm cho cậu một tấm ảnh về ngôi trường sau 20 năm. mong rằng, khi nhìn thấy tấm ảnh, cậu sẽ tưởng tượng ra được những sự thay đổi của ngôi trường thân yêu ngày nào.

Thôi, có lẽ tớ cũng chỉ viết đến đây thôi, cậu nhớ viết thư cho tớ nhé, tớ sẽ đợi. Tớ muốn biết xem, cậu nghĩ gì về ngôi trường cũ của chúng mình sau bao năm thay đổi. Tạm biệt cậu!

Câu trả lời:

Đề 2:

"Một năm mới lại về rồi,mẹ à!"Tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm và nghĩ về người mẹ kính yêu.Đã 3 năm kể từ ngày mẹ đi sang nước ngoài rồi.Nhớ lại hồi mẹ còn ở đây,mẹ đều đưa tôi đi chợ hoa và mua sắm vào những ngày năm mới gần kề thế này.Tôi cứ ngồi suy nghĩ mông lung rồi chìm vào giấc ngủ .
"Hồng ơi!",tôi nghe thấy có tiếng gọi từ đằng xa.Tôi quay lại thì thấy mình đang đứng giữa khu công viên mà ngày tôi còn bé mẹ thường dắt tôi đến đây chơi.Từ xa bước lại phía tôi là một bóng người mà tôi cảm thấy vừa thân quen,vừa lạ lẫm."Phải chăng là mẹ?"-Tôi thầm nghĩ bụng.Tôi chạy lại gần để nhìn cho rõ.Ồ!Đúng là mẹ rồi.Lòng tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc .Không kìm nổi xúc động,tôi gọi thật to:"Mẹ,mẹ ơi!" rồi tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ.Mẹ cũng dang rộng đôi vòng tay bé nhỏ của mình để ôm tôi.Mẹ nghẹn ngào nói:"Hồng!Con của mẹ!"Tôi òa khóc trong giây phút được gặp lại người mẹ kính yêu đã xa cách bao ngày.Đến bây giờ tôi mới có dịp nhìn kĩ mẹ hơn.Mái tóc của mẹ đã điểm vài sợi bạc.Những nếp nhăn của tháng ngày vất vả khó khăn bên xứ người hằn lên bên khóe mắt của mẹ.Chỉ có một điều ở mẹ mà tôi thấy không hề thay đổi,đó chính là nụ cười.Nụ cười của mẹ vẫn thật hiền dịu và đem lại cho tôi cảm giác yên bình ,hạnh phúc.Đang mải ngắm nhìn người mẹ hiền dịu đã xa cách bao ngày thì giọng mẹ vang lên khiến tôi hơi giật mình:
-Mẹ con mình ra ghế đá kia tâm sự đi.Lâu lắm rồi mẹ con mình không được nói chuyện với nhau.
Tôi gật đầu:
-Vâng ạ!
Tôi và mẹ ra hàng ghế đá thân thuộc ngày nào.Mẹ vuốt nhẹ lên mái tóc tôi và hỏi:
-Dạo này gia đình mình thế nào hả con?
Tôi liền trả lời:
-Mọi người vẫn khỏe mẹ à!Ông ngoại thì thỉnh thoảng bị thấp khớp.Còn các bác thì vẫn đi làm đều.Mọi người vẫn nhắc tới mẹ luôn đấy ạ.Ai cũng nhớ mẹ nhiều lắm.
Mẹ mỉm cười hiền dịu:
-Ừ!Vậy việc học của con bây giờ sao rồi?Con vẫn giữ ước mơ về sau trở thành phóng viên chứ?
Tôi nhanh nhảu trả lời:
-Việc học năm nay của con mệt và vất vả hơn những năm trước nhiều.Vì là năm cuối cấp nên ngoài học chính ở trên lớp ,con còn phải học thêm nhiều để củng cố kiến thức.Và để biến ước mơ được làm phóng viên thành hiện thực ,con vẫn đều đặn gửi bài cho báo đấy,mẹ à.Con sẽ không để mẹ và mọi người thất vọng đâu.
Lời nói của mẹ như truyền thêm niềm tin cho tôi:
-Ừ!Mẹ tin ở con.Phải cố gắng học cho giỏi con nhé.Dù có chuyện vui,buồn gì thì cũng phải tâm sự cho mẹ nghe.
Nghe giọng nói ấm áp của mẹ càng làm tôi thêm gần gũi mẹ hơn.Tôi biết rẳng ở phương xa-nơi đất khách quê người kia,mẹ vẫn luôn nhớ về tôi,dõi theo từng bước đi và quan tâm đến từng chuyện buồn vui của tôi.Tất cả những gì tôi làm được hôm nay đều nhờ đến lời động viên của mẹ.Tình yêu thương mà mẹ truyền cho tôi đã giúp tôi có nghị lực vượt qua những chông gai thử thách của đường đời.Tình mẫu tử thật thiêng liêng biết chừng nào!Đã bao lâu nay tôi vắng bóng hình ảnh người mẹ thân yêu mà giờ đây lại được ở bên cạnh mẹ,thật hạnh phúc làm sao!Tôi thầm nghĩ:"Mẹ à! Bây giờ mẹ con mình lại ở bên nhau rồi.Đừng rời xa con nữa,mẹ nhé..."Thế rồi tôi lại chìm vào những suy nghĩ,vào niềm sung sướng,hân hoan đang tràn ngập trong lòng.Rồi mọi vật bỗng trở nên nhạt dần,nhạt dần...
"Hồng ơi!Dậy đi em sao lại ngủ gật thế kia?Sắp sang năm mới rồi kìa.Em có dậy xem pháo hoa cùng gia đình không?"Tôi dụi mắt ,thấy chiếc đồng hồ đã sắp chỉ sang số 12.Tôi ngơ ngác nhìn quanh thì mới biết đó là một giấc mơ.Ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm,pháo hoa sáng rực trời,một năm mới nữa lại đến rồi.Tôi thầm nhủ với trời đêm,với nàng tiên mùa xuân để mong nàng tiên mùa xuân gửi lời đến mẹ :"Mẹ ơi!Con nhớ mẹ nhiều lắm.Mẹ hãy sớm trở về với con,mẹ nhé!"