Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Lưu học sinh đang ở nước ngoài , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 23
Số lượng câu trả lời 122
Điểm GP 10
Điểm SP 137

Người theo dõi (57)

Đang theo dõi (2)


Câu trả lời:

DẤU CHẤM LỬNG VÀ DẤU CHẤM PHẨY I. DẤU CHẤM LỬNG Công dụng của dấu chấm lửng (t.121) 1. Dấu chấm lửng. a) Dấu chẩm lửng tỏ ý còn nhiều anh hùng dân tộc nữa chưa liệt kê hết. b) Dấu chấm lửng thể hiện chỗ lời nói ngắt quãng của nhân vật do kinh hoàng (vì đê vỡ). c) Dấu chấm lửng chuẩn bị cho sự xuất hiện của từ bưu thiếp biểu thị nội dung hài hước. 2. Công dụng của dấu chấm lửng. Dấu chấm lửng được dùng để: - Tỏ ý còn nhiều sự vật, hiện tượng tương tự chưa liệt kê hết. - Thể hiện chỗ lời nói bỏ dở hay ngập ngừng, ngắt quãng. - Làm giảm nhịp điệu câu văn, chuẩn bị cho sự xuất hiện của một từ ngữ biểu thị nội dung bất ngờ hay hài hước, châm biếm. II. DẤU CHẤM PHẨY 1. Dấu chấm phẩy trong các câu sau đây được dùng để làm gì? Thử thay dấu chấm phẩy bằng dấu phẩy và cho biết trường hợp nào thì có thể được, trường hợp nào không? a. Cốm không phải thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. (Thạch Lam) b. Những tiêu chuẩn đạo đức của con người mới phải chăng có thể nêu lên như sau: yêu nước, yêu nhân dân; trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà; ghét bóc lột, ăn bám và lười biếng; yêu lao động, coi lao động là nghĩa vụ thiêng liêng của mình; có tinh thần làm chủ tập thể, có ý thức hợp tác, giúp nhau; chân thành và khiêm tốn; quý trọng của công và có ý thức bảo vệ của công; yêu văn hoá, khoa học và nghệ thuật; có tinh thần quốc tế vô sản. (Trường Chinh) Trả lời: + Câu (a), dấu chấm phẩy được dùng để phân tách hai vế của một câu ghép. Trường hợp này có thể thay dấu chấm phẩy bằng dấu phẩy. + Câu (b) là câu ghép sử dụng phép liệt kê, các nội dung liệt kê rất phức tạp: - yêu nước, yêu nhân dân; - trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà; - ghét bóc lột, ăn bám và lười biếng; - yêu lao động, coi lao động là nghĩa vụ thiêng liêng của mình; - có tinh thần làm chủ tập thể, có ý thức hợp tác, giúp nhau; - chân thành và khiêm tốn; - quý trọng của công và có ý thức bảo vệ của công; - yêu văn hoá, khoa học và nghệ thuật; - có tinh thần quốc tế vô sản. + Nếu dùng dấu phẩy thay các dấu chấm phẩy thì sẽ không phân biệt được các cặp từ, cụm từ với các từ, cụm từ; không phân cấp được các nội dung với ý nghĩa khác nhau về tầng bậc. Câu 2:Rút ra công dụng của dấu chấm phẩy? Trả lời: - Đánh dấu ranh giới giữa hai vế của một câu ghép có cấu tạo phức tạp. - Ngăn cách các bộ phận trong phép liệt kê phức tạp, giúp người đọc hiểu được các bộ phận, các tầng bậc ý trong khi liệt kê. III. LUYỆN TẬP 1. Dấu chấm lửng (t.123) a) Dấu chấm lửng thể hiện chỗ lời nói ngập ngừng do sợ hãi. b) Dấu chấm lửng thể hiện chỗ lời nói bỏ dở. c) Dấu chấm lửng biểu thị sự liệt kê chưa đầy đủ. 2. Công dụng của dấu chấm phẩy (t.123) a), b), c); Dấu chấm phẩy dùng để đánh dấu ranh giới các vế của các câu ghép có cấu tạo phức tạp. 3. Đoạn văn có dấu chấm lửng: “Ca Huế chỉ một loại hình sinh hoạt văn hóa độc đáo của cố đô Huế, hình thành từ nhiều dòng ca nhạc, đặc biệt là ca nhạc dân gian. Ngoài những bài hò như chèo, bài thai, hò giã gạo..., còn có các điệu lí như lí con sáo, lí hoài xuân...” Đoạn văn có dấu chấm phẩy: “Dàn nhạc ca Huế với đàn dây gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà nhị, đàn tam, đàn bầu; âm thanh có tiếng sáo và cặp sanh để gõ nhịp; ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Ngón đàn tài hoa, tiếng đàn khoan nhặt giữa đêm trăng làm nên tiết tấu xao động bồn người.

Câu trả lời:

Đề 2:

Từ xưa đến nay, những tác phẩm văn học có giá trị luôn là món ăn tinh thần bổ dưỡng của mỗi người. Nó giúp chúng ta hướng đến cái đẹp, cái nhân văn, đánh thức trong mỗi người sự rung động sâu xa trước những giá trị thẩm mĩ đích thực. Đồng thời nó cũng giúp người ta biết phân biệt cái xấu, cái ác với cái thật, cái tốt. Nhà văn là những người đã sáng tạo ra tác phẩm văn học. Do vậy, có người đã nhận định rất đúng đắn rằng : "Nhà văn là kĩ sư của tâm hồn".
Nói tâm hồn là nói tới thế giới phong phú bên trong mỗi con người, là cơ sở để con người thực sự trở thành con người. Cái thế giới tinh thần ấy không có sẵn, không tự nhiên sinh ra. Nó cần được nuôi dưỡng, chăm sóc, vun xới. Chính vì thế mà xã hội cần có những "kĩ sư tâm hồn".
"Kĩ sư" là những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật. Công việc của họ có thẻ thiết kế, xây dựng các công trình, có thể là phát minh hay sửa chữa các loại máy móc, động cơ... xuất phát từ nghĩa gốc đó từ "kĩ sư" mà người ta gọi là "kĩ sư tâm hồn". Đó là một ẩn dụ đẹp về thiên chức và sứ mệnh của nhà văn : những nhà kĩ sư thiết kế, xây dựng tâm hồn của con người, bồi dưỡng, giáo dục con người theo lí tưởng của cái cao đẹp.
Tâm hồn của con người được tạo dựng từ nhiều nguồn tri thức, thông tin khác nhau: đạo đức, lịch sử, triết học, âm nhạc, hội họa...; từ nhiều phương tiện khác nhau: đài, báo, các phương tiện nghe nhìn.. Văn học không phải là độc quyền trong việc hình thành tâm hồn con người, nhưng trong lĩnh vực này, nó có những lợi thế đặc biệt. Văn học là "chiếc nôi" của mỗi con người. Từ thở ấu thơ, ta đã được bao bọc trong những câu ca dao mẹ ru, trong những truyện cổ tích huyền ảo. Những đạo lí làm người đã ngấm vào ta tự nhiên như khí trời, như cơm ăn, như nước uống. Trong tác phẩm văn học, con người được tái hiện một cách thẩm mĩ với tất cả tính tổng hợp, toàn vẹn và sống động trong các mối quan hệ của đời sống. Trong tác phẩm văn học, ta bắt gặp nhà văn không chỉ với những nhận thức về chân lí đời sống mà còn những rung động, khổ đau, ước mơ, khát vọng. Trong tác phẩm, ta bắt gặp nhân vật với những số phận, suy tư thầm kín... Tác phẩm văn học là không gian ở đó "tâm hồn ta gặp gỡ với những tâm hồn khác", nhờ thế làm phong phú thêm cho tâm hồn của chính mình.
Rõ ràng, bằng tư tưởng, tâm hồn đẹp của hình tượng nghệ thuật sinh động, nhà văn- qua tác phẩm văn học- đã góp phần định hướng giá trị cho người đọc. Trước tiên, văn học định hướng con người nhận biết và vươn tới cái chân, cái thiện, cái mĩ. Chỉ có tư tưởng coi trọng con người, thông cảm với nỗi đau khổ của con người. Nguyễn Du mới có sáng tạo nên một "Truyện Kiều" bất hủ. Đọc tán phẩm, ta kính trọng phẩm chất hiếu thảo, giàu lòng vị tha của nàng Kiều- người con gái đã hi sinh tuổi trẻ, tình yêu của mình để cứu cha và em. Truyện ngắn "Lão Hạc" của Nam Cao khiến con người ta cảm động trước cái nhân cách cao đẹp của "Lão Hạc" : rất mực nhân hậu, giàu lòng tự trọng và hết lòng thương yêu con trai mình. Bài thơ "Quê Hương" của Tế Hanh lại giúp ta hiểu biết những giá trị, những vẻ đẹp giản dị mà đầy chất thơ của làng quê, xứ sở... Quả thực, mỗi tác phẩm văn học dù vô danh, dù nhỏ bé đều giúp ta hoàn thiện nhân cách. Đọc một áng ca dao, ta biết yêu thương, kính trọng và biết ơn những người lap động : "Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".
Ta đã cảm nhận được ở câu ca dao sau vẻ đẹp lung linh của hình tượng, ta thấy được cái hay của một ngôn ngữ đầy nhạc tính và tìm thấy ở đó một cách tỏ tình độc đáo, tế nhị : "Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi".
Mặt khác, qua tác phẩm văn học, nhà văn còn giúp người đọc nhận ra cái xấu, cái ác, lẽ bất công, điều giả dối. Đúng như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu nhận xét "Vì chưng hay gét cũng là hay thương". Yêu quý, trân trọng phẩm giá của nàng Kiều khiến ta thấy bất bình, căm giận xã hội với gương mặt của Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến đã đẩy người con gái có tài, có nhan sắc ấy vào số phận bi kịch. Chúng ta căm ghét tên "Lí Thông" lừa lọc qua truyện cổ tích "Thạch Sanh". Chúng ta ca rnh giắc trước những điều hiểm độc núp dưới vỏ bọc hiền lành qua câu tục ngữ "Miệng nam mô bụng bồ dao găm". "Bình ngô đại cáo" lại giúp ta căm thù sâu sắc tội ác của kẻ thù : "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ"
Tóm lại sứ mệnh cao cả của nhà văn là xây dựng những tâm hồn cao đẹp, biết căm thù và biết yêu thương, hướng con người vươn tới những giá trị nhân bản. Khi nói "nhà văn là kĩ sư của tâm hồn" là muốn nói tới vai trò, vị trí của nhà văn trong xã hội, đồng thời cũng nhấn mạnh tới trách nhiệm của họ trước xã hội.
Bao giờ nhà văn cũng thông qua tác phẩm để gửi gắm, ước mong, những quan điểm của mình đến với độc giả. Ví dụ qua tác phẩm "Tắt Đèn", đặc biệt là qua hình tượng Chị Dậu, nhà văn Ngô Tất Tố đã phát hiện và khẳng định nhân phẩm lành mạnh, đẹp đẽ của người phụ nữ lao động. Mặc dù sống trong cảnh nghèo đói tăm tối, tâm hồn họ vẫn trong sạch và ngát hương. Không dễ gì để có được một phát hiện như thế. Phải có tấm lòng yêu thương, trân trọng, biết cảm thông và trân trọng, thấu hiểu người lao động, nhà văn mới có thể nhận ra vẻ đẹp của người phụ nữ như chị Dậu. Kết tinh trong vẻ đẹp của hình tượng chị Dậu còn là vẻ đẹp của nhà văn, nhân cách của con người cầm bút chân chính.
Điều ấy nói lên rằn, muốn có tác phẩm lớn, nhà văn phải có một tâm hồn, một nhân cách lớn. Đó là điểm tựa để nhà văn đến với cuộc đời, phát hiện những bộn bề cuộc sống, những vẻ đẹo giá trị tâm hồn còn lẩn khuất.
"Nhà văn là kĩ sư của tâm hồn" là danh hiệu của bạn đọc dành cho các nhà văn chân chính với tất cả những kì vọng và trân trọng của mình. Chúng ta cảm ơn các nhà văn và mong muốn họ ngày càng có nhiều tác phẩm hay, góp phần làm giàu thêm cho dời sống tâm hồn tinh thần của xã hội.

Câu trả lời:

“Ca Huế trên sông Hương ” là một bài tùy bút đặc sắc, giàu chất thơ của Hà Ánh Minh trên báo: “Người Hà Nội”. Bài viết làm ta phần nào cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, đặc sắc, độc đáo của những điệu hò, bài lí, những bài dân ca Huế. Những tiếng đàn réo rắt, du dương, đầy sức quyến rũ, thể hiện một cách tuyệt đẹp tâm hồn người Huế xưa và nay. Xứ Huế
mộng mơ nổi tiếng với những điệu hò như: Chèo cạn; Bài thai; Hò đưa linh; Hò giã gạo; Hò mái nhì; Hò mái đẩy; Ru em; Dã diệp; Dã vôi…Những làn điệu dân ca này phản ánh cuộc sống sinh hoạt, tâm hồn của người Huế.Bà con xứ Huế cất tiếng hò trong lao động sản xuất; trong sinh hoạt đồng quê. Nổi bật nhất chính là thưởng thức ca Huế trên thuyền rồng, đi dọc dòng sông Hương dưới ánh trăng, ánh ánh đèn điện lung linh, làm cho những làn điệu dân ca này trở nên tha thiết. Ngồi trên khoang thuyền được nghe ca Huế với giàn nhạc phong phú như: đàn tranh; đàn nguyệt; đàn tì bà; đàn nhị; đàn tam; đàn bầu; sáo; cặp xanh như các vị vua chúa ngày xưa thì còn gì bằng. điều đó đã chứng tỏ người dân xứ Huế thật tài ba và tâm hồn họ phong phú đến nhường nào! Ca Huế được hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Nhã nhạc trang trọng, uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng. Ca Huế rất phong phú, đa dạng về mặt âm hưởng, đạm đà chất nhạc dân ca. Tuy chưa được nghe ca Huế lần nào nhưng qua bài: “Ca Huế trên sông Hương”, em đã hiểu được nét đạp mộc mạc nhưng rất đỗi trữ tình trong dân ca Huế, đó là một nét đẹp văn hóa của xứ Huế mộng mơ.