Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 21
Số lượng câu trả lời 182
Điểm GP 23
Điểm SP 333

Người theo dõi (109)

Dong Hoang
lyly2k8
KIM NAM JOON
phạm ngọc linh

Đang theo dõi (18)

Quỳnh Ánh
Yuzu
Ba
Ba
Cao Đức Lâm

Câu trả lời:

ĐỐI VỚI TỪ ĐƠN
1/ Danh từ và tính từ có 2 âm tiết thì nhấn ở âm thứ I

=> e.g. ‘beauty, ‘music, ‘tired, ‘angry,…

2/ Động từ có 2 âm tiết nhấn âm thứ II

=> e.g. comp’lete, de’sign, su’pport,…

3/ Các từ tận cùng là -ic(s), -sion, -tion nhấn âm thứ II từ cuối đến lên

=> e.g. ‘logic, eco’nomics, com’pression, pro’fession, re’lation, so’lution,…

4/ Các từ tận cùng là -cy, -ty, -phy, -gy, -al nhấn âm thứ III từ cuối đếm lên

=> e.g. de’cocracy, relia’bility, bi’ology, pho’tography, se’curity, po’litical, ‘critical, eco’nomical,…

5/ Các từ có 3 âm tiết trở lên, trọng âm cũng rơi vào âm tiết thứ III từ cuối đếm lên

=> e.g. e’conomy, ‘industry, in’telligent, ’specialise, …
ĐỐI VỚI TỪ GHÉP

6/ Danh từ ghép có trọng âm rơi vào âm đầu I

=> e.g. ‘penholder, ‘blackbird, ‘greenhouse, ‘boyfriend,…

7/ Tính từ ghép có trọng âm rơi vào âm tiết thứ II

=> e.g. bad-’tempered, old-’fashioned, one-’eyed, home’sick, well-’done,…

8/ Động từ ghép có trọng âm rơi vào phần thứ II.

=> e.g. over’look, over’react, mal’treat, put’across,…

CÁC TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT

9/ Các từ vay mượn từ tiếng Pháp (có hậu tố ~ee, ~eer ~aire, ~que) thì trọng âm của từ rơi vào âm tiết cuối cùng.

=> e.g. absen’tee, volun’teer, questio’naire, tech’nique, pictu’resque, …

*Note: Có 2 ngoại lệ là com’mittee, ‘coffee.

10/Ngoại lệ:

– Có những từ dài có 4 âm tiết trở lên có thể có 2 trọng âm chính và phụ, e.g. in,dustriali’sation, inter’national,…

– Trong vài trường hợp, trọng âm của từ sẽ thay đổi khi tự loại thay đổi, e.g. ‘comment (n) -> com’ment (v), perfect (adj) -> pre’fect (v),…

– Ngược lại, có những từ nếu thay đổi trọng âm thì nghĩa sẽ thay đổi, e.g. ‘invalid (người tàn tật), in’valid (không còn giá trị nữa).

Chúc bạn học tốt!!!

Câu trả lời:

Thời gian của đời người là hữu hạn mà mỗi người lại có những đam mê khác nhau nên sẽ có cách sử dụng chúng khác nhau. Một kế hoạch làm việc chính là sự tương thích giữa niềm đam mê và nguyện vọng cá nhân với thời gian phù hợp mà bạn sở hữu.

Làm việc có kế hoạch giúp bạn đến gần mục tiêu hơn

Khi nói đến việc đạt được mục tiêu, chúng tôi không chấp nhận những thứ như là để mai, để sau, v.v… Làm như vậy trong thực tế là sai lầm khủng khiếp nhất mà chúng tôi từng trải qua, trì hoãn như một lời cam kết mang lại sự căng thẳng và thất bại trong cuộc sống. Chắc hẳn mỗi người trong chúng ta đã từng một hay nhiều lần đối mặt với sự trì hoãn và nhận ra hậu quả của sự trì hoãn nhưng cái giá phải trả thường rất đắt.

Bất kể là trong công việc hay cuộc sống cá nhân, nếu không hoàn thành đúng thời hạn bạn sẽ luôn đứng sau trong vòng đua của cuộc sống, trong việc đạt được mục tiêu của mình. Và trong khi bạn trì hoãn, bạn đã mất đi những cơ hội mới mà bạn thậm chí không nhận thức được. Lên kế hoạch hoặc suy nghĩ cụ thể hơn về những công việc bạn sẽ làm mỗi ngày giúp cho tâm trí của bạn hoạt động tích cực hơn và không stress vào cuối ngày. Tại sao vậy? Bởi vì bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm và hài lòng hơn khi đã hoàn thành tất cả các nhiệm vụ quan trọng trong ngày! Không loại trừ việc bạn phải điều chỉnh thời gian giành cho mỗi công việc nhưng mục đích cuối cùng của bạn chính là hoàn thành những mục tiêu đã đề ra. Vì vậy, có một kế hoạch làm việc mỗi ngày có thể giúp bạn đến gần mục tiêu của mình hơn, năng suất làm việc sẽ cao hơn so với những ngày bạn làm việc không có kế hoạch, công việc đạt hiệu quả hơn và tập trung vào danh sách những việc bạn phải làm.

Câu trả lời:

Hồ Quý Ly là 1 nhà cải cách táo bạo và kiên quyết ông đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp cải cách trên nhiều phương diện.

Cải cách của ông xét về nội dung nhằm thực hiện 2 mục tiêu:

-Củng cố va tăng cường chế độ tập quyền.

-Giải quyết các mâu thuẫn kinh tế – xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu lịch sử do cuộc khủng hoảng đặt ra.

Những mục tiêu nói trên của công cuộc cải cách chứng tỏ ông đã nhận thức được những ghi nhận sâu xà của cuộc khủng hoảng cuối thời Trần và mạnh dạn tiến hành các chính sách cải cách và biện pháp cải cách ông đã đảm nhận vài trò người khởi xướng và tổ chức lãnh đạo công cuộc cải cách để thực hiện mục tiêu, định hướng đã đề ra. Có thể kiên định rằng Hồ Quý Ly đã đóng vài trò là người mở đầu 1 thời điểm cải cách quan trọng trong lịch sử trung đại Việt Nam.

Xét về định hướng, mục tiêu và kết quả của công cuộc cải cách, ta thấy Hồ Quý Ly đã loại bỏ được tầng lớp quý tộc Trần vra khỏi bộ máy nhà nước và ngày càng bổ sung được đội ngũ quan liêu – nho sỹ mới vào nắm chính quyền; bộ máy hành chính và quan lại từ địa phương được chấn chỉnh lại làm cho chế độ cai trị mang tính pháp trị cao hơn. Do đó đã có tác dụng làm chuyển dần thiết chế chính trị từ chế độ quân chủ quan liêu đó chưa được xây dựng hoàn chỉnh dưới triều Hồ do cuộc xâm lược của nhà Minh (cuối 1406 đầu 1407) đã làm cho công cuộc cải cách bị bỏ dở, song nó sẽ được tiếp nối và hoàn chỉnh ở nửa cuối thế kỷ XV dưới triều đại vua lê Thánh Tông (1460 – 1497). Điều đó cho thấy trong điều kiện lịch sử Việt Nam bấy giờ, mục tiêu, định hướng và kết quả của công cuộc cải cách là đúng hướng đáp ứng những yêu cầu khách quan nằm trong xu thế phát triển nội tại của nước ta, là 1 bước tiến của lịch sử Đại Việt không chỉ ở mặt thiết chế chính trị, mô hình nhà nước mà còn ở lĩnh vực kinh tế – xá hội, xóa bỏ loại hình kinh tế điền trang đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp và cản trở sự phát triển sức sản xuất và yêu cầu củng cố quốc gia thống nhất, tập quyền.

Tuy nhiên, cải cách của ông còn bộc lộ 1 số hạn chế quan trọng như sau:

+Trong quá trình thực hiện cải cách đã thiếu triệt để trong 1 số chính sách cơ bản như: hạn điền trang, hạn nô phát hành tiền giấy, hạn chế số lượng ruộng đất của “thứ dân” và quan lại (trừ đại vương trưởng công chúa) đã hạn chế sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất. Tình hình đó không phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử đương thời, cần thiết lập 1 chế độ tập quyền.

+Công cuộc cải cách của ông được thực hiện trong hoàn cảnh lịch sử đầy những khó khăn, phức tạp vừa phải giải quyết cuộc khủng hoảng của xã hội trên nhiều mặt, vừa phải đối phó với nạn ngoại xâm đang đến gần và sự chống đối quyết liệt của quý tộc tổn thất nhà Trần.

Những hạn chế trong công cuộc cải cách đã tác dụng xấu đến khả năng đoàn kết toàn dân để chống giặc ngoại xâm của nhà Hồ. Cùng với những sai lầm trong tổ chức và chỉ đạo chiến tranh trong cả chiến lược và chiến thuật, không tổ chức và thực hiện được 1 cuộc chiến tranh nhân dân, chỉ sau hơn nửa năm cuối 1406 đầu 1407) Quân Minh xâm lược, cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại, vì Hồ Quý Ly chỉ lo xây dựng thế trận phòng thủ bằng thành lũy mà không biết xây dựng thế trận lòng dân. Chính Hồ Nguyên Trừng con trai cả của ông cũng đã nói lên điều đó khi phát biểu “Tôi không sợ đánh giặc mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Và ông cũng đã thừa nhận khi thưởng cho Hồ Nguyên Trừng hộp trầu vàng. Cuộc kháng chiến bị thất bại kéo theo sự sụp đổ của vường triều Hồ và làm thất bại cuộc cải cách đang dang dở của Hồ Quý Ly. Cuộc xâm lược của nhà Minh là 1 nhân tố bên ngoài góp phần quyết định sự thất bại của cải cách Hồ Quý Ly.

Mặc dù thất bại, ông không hề nản chí trước muôn vàn khó khăn, thử thách to lớn, quyết tâm cải cách để đổi mới và đánh giặc để bảo vệ đất nước, điều đó chứng tỏ rằng là 1 người yêu nước thiết tha. Cải cách của ông cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV có ý nghĩa mở đầu cho 1 bước phát triển mới trong lịch sử Việt Nam thời kỳ trung đại, để sau đó vào cuối thế kỷ XV được tiếp tục và hoàn chỉnh với những cải cách của Lê Thánh Tông.

Nền hành chính nước ta dưới thời lê sơ – thế kỷ XV

Câu trả lời:

Có thể nói, Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn là nhà văn trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận lỗi lạc. Và, nhắc đến văn chính luận Nguyễn Trãi, ta không thể không nhắc đến bài “ Đại cáo bình Ngô “ mang những nét rất đặc trưng, cơ bản của thể cáo.
Như chúng ta đã biết: năm 1427 đánh dấu sự kiện trọng đại quân ta đại thắng chống lại giặc Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã sáng tác ra “ Đại cáo bình Ngô”- được coi là bản tuyên ngôn độc lập, một áng “ thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. “ Bình Ngô đại cáo” đã nói lên phần nào nỗi lòng của Nguyễn Trãi cũng như của cả dân tộc Việt Nam ta: căm thù, phẫn uất trước kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về chiến công to lớn của thời đại. “ Đại cáo bình Ngô” được viết theo thể cáo, gồm bốn phần với những ý nghĩa sâu sắc khác nhau.
Bằng những lí lẽ xác đáng, lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa, hợp với lòng dân, hợp với quy luật là chính nghĩa. Và lẽ dĩ nhiên, những việc làm cao quý đó chỉ có thể xuất phát từ một lòng yêu nước, thương dân cao cả.

Vạch rõ, tố cáo những tội ác của giặc Minh chính là nội dung chính của đoạn

tiếp theo. Ở đây, Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt tội ác của giặc Minh. Chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má, phuaphen nặng nề, vơ vét sản vật quý hiếm, diệt xản xuất, sự sống, tàn sát dã man dân ta, làm cho dân ta lâm vào cảnh” khốn cùng”.

“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Cuối cùng, sau khi liệt kê một loạt tội ác của giặc Minh, tác giả đã bộc lộ thái độ căm thù, phẫn uất đồng thời kết tội chúng:

“ Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần nhân chịu được ? “

Tác giả đã có cách lập luận chặt chẽ, lời văn đanh thép, sử dụng những hình ảnh rất thực và có sức khái quát cao, giọng văn linh hoạt để kết tội giặc Minh. Có thể nói, phần thứ hai là một bảng cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của giặc Minh là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ.