Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 49
Số lượng câu trả lời 7
Điểm GP 0
Điểm SP 6

Người theo dõi (7)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

            Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân nhìn như là đối tượng của cái Đẹp.  Theo Nguyễn Tuân, không cứ gì cứ là người hoạt động ở các ngành nghệ thuật họ mới là kẻ tài hoa nghệ sĩ.  Mà những con người xung quanh chúng ta biết tôn trọng cái Đẹp đều có thể ứng xử Đẹp và tự giác sáng tạo ra cái Đẹp.  

           Nghệ thuật ở đây chính là nó đã nhập thân vào người lái đò cả phương diện hình thức lẫn tính cách.  “Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy nắm được quy luật tất yếu của dòng sông Đà.  

           Hình ảnh người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân dựng tượng khiến cho ta như sờ mó được.  Bức tượng ấy không phải là con người chung chung mà nó tạo dáng hết sức riêng biệt không thể đặt tên gì khác hơn là “người lái đò sông Đà”.  Bức tượng hắt chiếu ra tính cách bên trong của con người này.

           “Tay ông dài lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào… nhỡn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”.  

            Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông như là một viên tướng ngày xưa lao vào một trận đồ bát quái của Khổng Minh với biết bao nhiêu cạm bẫy, hết vòng này đến vòng khác, và mỗi vòng, đá trên thác sông Đà đều có những viên tướng ti ba chỉ huy.

             Để áp đảo ông lái đi, đám “quân thác đá” còn nổi trống chiêng la hò dữ dội “Rống lên như ngàn con trâu mộng đang lồng lộn… rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu cháy bùng bùng”.

             Thật là một liên tưởng hết sức bất ngờ.  Câu chuyện nói về “đá thác” ở đây là liên tưởng tới “đàn trâu”“rừng bị cháy”.  Nếu không có phong cách tài hoa táo bạo của Nguyễn Tuân khi xử lý những hiện tượng trên sẽ gây ra khập khiễng, phi lôgich.  Đoạn văn dựng cảnh đầy giá trị tạo hình, nó như một cuốn phim quay cận cảnh và dựng lại đặc tả các chi tiết.  Chính Nguyễn Tuân đã có ý định sử dụng vốn văn hóa về môn nghệ thuật thứ bảy này để dựng cảnh thạch trận thật ấn tượng.  

              Ta cũng lưu ý thuật kể đầy hồi hộp, đầy kịch tính căng thẳng, vốn tri thức về quân sự và võ thuật được đưa ra ứng dụng.  Quả là “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá.  Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá…, Ông đã “cưỡi” lên thác sông Đà: “Nắm chặt lấy cái bờm sóng”, “bám chắc lấy luồng nước” lúc “phóng nhanh” lúc “lái miết”, nhớ mặt bọn đá “đứa thì ông tránh” “đứa thì ông đè xấn lên”…

              Ông lái đò quả là vị tướng đầy thao lược tài ba.

              Ông đang trình diễn nghệ thuật của mình với qui luật thiên nhiên khắc nghiệt.  Nếu thiếu một chút bình tĩnh, thiếu một chút chính xác, ông phải trả giá bằng mạng sống của mình.

              Nguyễn Tuân quả là ưa khai thác những cảm giác mạnh để tác động những ấn tượng không phai mờ trong tâm não của độc giả về vẻ đẹp của ông lái đị, Không những là vẻ đẹp của bản lĩnh vượt thác phi thường mà cịn l vẻ đẹp của sự bình dị của con người sông nước bình thường.  

              Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa.  Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động.  Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.  Họ là đối tượng của cái đẹp, của ánh sáng thẩm mĩ hiện đại.  

 

Câu trả lời:

1.Hoàn cảnh lịch sử

a.Tình hình thế giới

-Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, chủ nghĩa phát xit xuất hiện và lên cầm quyền ở đức,Ý, Nhật, trở thành mối hiểm họa lớn đang đe dọa nền hòa bình thế giới.

-Đại Hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản chỉ rõ:

              +Kẻ thù nguy hiểm của nhân nhân thế giới là chủ nghĩa phát xít.

              +Chủ trương thành lập mặt trân nhân dân ở các nước để chống chủ nghĩa phát xít

-Ở Pháp năm 1936 Mặt trận nhân dân thắng cử và lên cầm quyền.Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp đã thi hành một số chính sách tự do, dân chủ ở thuộc địa…

bTình hình trong nước:

-Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 1933 và chính sách khủng bố kéo dài của thực dân pháp đã làm cho đời sống nhân dân đông Dương hết sức ngột ngạt, yêu cầu cải thiện đời sống và các quyền tự do dân chủ được đặt ra một cách bức thiết.

-Đảng và lực lương cách mạng đã được phục hồi.

2.Chủ trương của đảng: Căn cứ tình hình thế giới và trong nước vân dụng đường lối của Quốc tê cộng sản, Hội nghị Trung ương đảng đã đề ra chủ trương mới.

-Xác định kẻ thù: Kẻ thù cụ thể chủ yếu trước mắt của nhân dân đông Dương chưa phải là bọn thực dân Pháp nói chung mà là bọn thực dân phản động thuộc địa Pháp

 -Xác định nhiệm vụ: Nhệm vụ trước mắt của nhân dân đông Dương là chống chủ nghĩa phát xit, chống chiến tranh đế quốc, đòi những quyền tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình

-Hình thức tập hợp lực lượng: Chủ trương thành lập mặt trận nhân dân phản đế đông Dương (sai đổi thành mặt trận dân chủ đông Dương 3/1938) để tập hợp đông đảo mọi lực lượng yêu nước dân chủ tiến bộ.

 -Hình thức và phương pháp đấu tranh: Vận dụng nhiều hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nữa công khai, đấu tranh chính trị, nghị trường, báo chí……

 -Lực lượng tham gia:Gồm nhiều tầng lớp giai cấp như công nhân, nông dân, tri thức, dân nghèo thành thị……

3.Các phong trào tiêu biểu trong phong trào dân chủ 1936-1939

a.Phong trào đông Dương đại hội (đại hội đông Dương) 8/1936 Giữa năm 1936 được tin chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp cử một phái đoàn sang điều tra tình hình đông Dương, nhân điều kiện đó đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai hợp pháp, vận động thành lập ủy ban trù bị nhằm thu thập nguyện vọng của nhân dân tiến tới đại hội của nhân dân đông Dương. Phong trào diễn ra sôi nổi các ủy ban hành động nối tiếp nhau ra đời ở nhiều địa phương trong cả nước.Quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp, diễn thuyết để thu thập dân nguyện đòi chính phủ mặt trận nhân dân Pháp thả tù chính trị, thi hành luật lao động, cải thiện đời sống nhân dân.

b. Phong trào đón rước Gô đa và toàn quyên đông Dương. đầu năm 1937 nhân dịp đón phái viên chính phủ Pháp là Gô đa và toàn quyền đông Dương Brivie, dưới sự lãnh đạo của đảng quần chúng nhân dân nhất là công nhân và nông dân đã tổ chức biểu dương lực lượng thông qua các cuộc mít tinh, biểu tình đưa dân nguyện đòi cải thiện cuộc sống và đòi các quyên tự do dân chủ.

c.Cuộc mít tinh ngày 1/5/1938 Nhân ngày quốc tế lao động 1/5/1938 tại quảng trường nhà đấu xảo Hà Nội đã diễn ra một cuộc mit tinh khổng lồ với hai vạn rưỡi người tham gia hô vang các khẩu hiệu đòi tự do lập hội ái hữu, nghiệp đoàn, thi hành luật lao động, đòi giảm thuế, chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ hòa bình

d.đấu tranh trên lĩnh vực báo chí . Nhằm giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tuyên truyền chính sách của đảng nhiều tờ báo công khai của đảng, của Mặt trận , và của các đoàn thể ra đời như Tiền phong, Dân chúng, Lao động……

e.Đấu tranh trên lĩnh vực nghị trường . đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để đưa người của đảng vào Hội đồng quản hạt Nam Kì, viện dân biểu Bắc Kì để đấu tranh Cuối năm 1938 chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ngày càng thiên hữu, bọn phản động Pháp ở đông Dương ngóc đầu dậy phản công và đàn áp phong trào cách mạng nước ta làm cho phong trào cách mạng thu hẹp dần đến khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì chấm dứt.

 4.Ý nghĩa và tác dụng của phong trào 1936-1939.

-Cuộc vân động dân chủ 1936-1939 là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn.Qua đó đảng ta đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền giáo dục râu rộng tư tưởng Mác-   Lê Nin, đường lối chính sách của đảng, tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận dân tộc thống nhất xây dựng được đội quân chính trị đông đảo.

 -Qua phong trào uy tín và ảnh hưởng của đảng được mở rộng và ăn sâu trong quần chúng, trình độ chính trị và khả năng công tác của cán bộ được nâng lên, tổ chức đảng được củng cố và phát trển.

-Phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm như bài học về sử dụng các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng Mặt trận nhân dân thống nhất. Với những ý nghĩa đó phong trào dân chủ 1936-1939 được xem là cuộc diễn tập lần thứ hai của nhân dân Việt Nam chuẩn bị cho sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.