Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 31
Số lượng câu trả lời 12
Điểm GP 4
Điểm SP 19

Người theo dõi (5)

Trinh Trinh
Nguyen Thi Tra My
cute cute

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc, lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử. Ông là người có học vấn uyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê .

 

“Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

Thu ăn năng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Rượu đến cội cay ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào một cuộc sống nhàn rỗi

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẫn dầu ai vui thú nào…..”

 

Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh một ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ “một” thêm vào là một số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc một cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai muốn là có. Từ “thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của một người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Và từ “vui thú nào” cũng một lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ, tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.

“….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao sao……”

 

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như “ta” _ “người”; “dại” _ “khôn” ; “nơi vắng vẻ”_ “chốn lao xao”. Từ một loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội” . hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là “dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm? Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình. Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới. Vậy nên NBK rời bỏ “chốn lao xao” là điều đáng trân trọng .

“ ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………”

 

Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên. Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà, mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay. Câu thơ “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã. Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành .Đăt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.

“……. Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

 

Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc, vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu. Đối với NBK phú quí không phải là một giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên, giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là một giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình .

 

Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của NBK coi thường danh lợi, luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên, đề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bên cạnh đó NBK còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật, điển tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm một cách linh hoạt .

 

Bài “Nhàn” là một bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của VHTĐVN. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn, lối sống trong sạch của NBK vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.

 

 

 

Câu trả lời:

Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu là một truyện ngắn đặc sắc và độc đáo của Nguyễn Ái Quốc, sáng tác năm 1925 sau sự kiện nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc từ Trung Quốc áp giải về Việt Nam và xử tù chung thân. Trước phong trào đấu tranh sôi sục của nhân dân cả nước đòi thả cụ Phan, chúng đã phải ra lệnh ân xá rồi đem cụ về giam lỏng ở Bến Ngự, kinh đô Huế, cho đến ngày cụ qua đời (1940).

Va-ren vốn là đảng viên Đảng Xã hội Pháp. Sau khi phản bội Đảng, hắn được cử làm Toàn quyền Đông Dương, thay cho Méc-lanh bị chiến sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái ám sát hụt phải về nước. Trước ngày chuẩn bị sang Đông Dương nhậm chức, Va-ren tuyên bố sẽ quan tâm tới cụ Phan Bội Châu. Ngay lập tức, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Những trò lố hay là Va- ren và Phan Bội Châu để phơi bày bộ mặt lố bịch cùng bản chất xấu xa của hắn.

Hình thức tác phẩm giống như một bài kí sự nhưng thực ra nó là một truyện ngắn hư cấu (nghĩa là tưởng tượng trên cơ sở những yếu tố có thật).

Nhân vật có thật là Va-ren  toàn quyền Pháp mới tại Đông Dương; Phan Bội Châu – là chí sĩ yêu nước đang bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam tại Hà Nội, Sự kiện có thật là phong trào đấu tranh sôi sục của nhân dân đòi thả cụ Phan Bội Châu đang dâng cao khắp ba miền.

Những tình tiết hư cấu là truyện được viết trước khi Va-ren sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương và thực tế sau khi sang Đông Dương cũng  không có chuyện Va-ren gặp Phan Bội Châu ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. Nội dung cuộc gặp gỡ giữa Va-ren với Phan Bội Châu cũng là do tác giả tưởng tượng ra. Thông qua hai nhân vật Va-ren và Phan Bội Châu, chúng ta hiểu rõ thái độ căm thù, khinh bỉ quân xâm lược và lòng vêu nước thiết tha của Nguyễn Ái Quốc.

Đặt cụm từ Những trò lố trong nhan đề tác phẩm, tác giả có chủ ý vạch trần hành động giả dối, lố bịch và bản chất xấu xa của tên cáo già Va-ren. Truyện được kể theo trình tự thời gian: Từ Pa-ri, Va-ren xuống tàu sang Việt Nam rồi tới khám giam cụ Phan Bội Châu tại Hỏa Lò. Chuyến đi chia thành bốn chặng. Chặng 1: Bốn tuần lễ đầu, Va-ren ở trên tàu trong hành trình từ Mác-xây đên Sài Gòn. Chặng 2: Va-ren đến Sài Gòn, được chính quyền sở tại đón tiếp “nhiệt tình”. Chặng 3: Va-ren tới Huế, được triều đình nghênh tiếp, được dự yến và gắn mề đay. Chặng 4: Va-ren ra Hà Nội, tiến hành cuộc hội kiến với Phan Bội Châu ở trong tù và những trò lố của hắn đã diễn ra. Phần trích trong sách giáo khoa là chặng 1 và chặng 4.

Qua cách kể chuyện và miêu tả của tác giả, người đọc có thể hình dung ra chuyến đi dềnh dàng kéo dài và những trò lố (những trò nhố nhăng, bịp bợm, đáng cười) của tên Toàn quyền Va-ren.

Trong đoạn văn có hai nhân vật chính là Va-ren và Phan Bội Châu. Hai nhân vật này được xây dựng bằng nghệ thuật tương phản. Va-ren (kẻ thống trị) bất lương đối lập với cụ Phan Bội Châu là một tù nhân (người bị trị) nhưng lại cao cả và vĩ đại.

Ngôn ngữ sử dụng trong việc khắc họa tính cách của từng nhân vật cũng khác nhau. Tác giả dùng ngôn ngữ trần thuật để khắc họa tính cách của Va-ren. Còn với Phan Bội Châu, tác giả dùng phương pháp đối lập là sự im lặng. Đây là bút pháp tinh tế, sắc sảo có khả năng gợi tả, gợi cảm lớn.

Va-ren nhậm chức toàn quyền, đứng đầu bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại Đông Dương (gồm ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia). Trò lố đầu tiên của hắn là hứa chăm sóc cụ Phan Bội Châu. Tác giả ngầm khẳng định: Va-ren vừa mới nhậm chức nên muốn trấn an dư luận, Vì thế nên lời hứa của hắn chỉ là lời hứa suông để mị dân, làm dịu không khí đấu tranh chống Pháp đang sôi nổi khắp nơi. Điều đó cho thấy Va-ren là một kẻ nham hiểm, xảo quyệt, lời hứa đó để đối phó trước sức ép của công luận ở Pháp và Đông Dương. Nói khác đi, đó là lời hứa gượng ép, miễn cưỡng.

Tác giả đã bình luận việc này như sau: Ông hứa thế; giả thử cứ cho rằng một vị Toàn quyền Đông Dương mà lại biết giữ lời hứa đi chăng nữa, thì chúng ta vẫn được phép tự hỏi liệu quan Toàn quyền Va-ren sẽ “chăm sóc” cụ ấy vào lúc nào và ra làm sao? Tác giả vạch ra mâu thuẫn giữa nội dung lời hứa và thời gian thực hiện lời hứa. Thời gian thực hiện còn lâu, vì Va- ren vừa mới xuống tàu, mà hành trình đường biển kéo dài chừng bốn tuần lễ. Trong khi đó, Phan Bội Châu vẫn bị giam trong tù.

Cho nên, lời hứa của hắn là trò lố thứ nhất. Tác giả dùng cụm từ nửa chính thức hứa một cách mỉa mai và câu hỏi nghi vấn để thề hiện điều đó. Thực tế, Va-ren vẫn là một tên thực dân đứng đầu guồng máy cai trị ở Đông Dương; còn Phan Bội Châu vẫn là lãnh tụ cách mạng bị cầm tù. Hai người đại diện cho hai phía đối lập nhau.

Ở đoạn mở đầu truyện, tác giả thông báo về việc sang Việt Nam cùng lời hứa của viên Toàn quyền. Cách diễn đạt ngụ ý châm biếm gieo mối ngờ vực trong lòng mọi người về việc Va-ren thực hiện lời hứa ấy. Có thể nói tác giả không tin một chút nào vào “thiện chí” của hắn.

Sau đó là cuộc hội kiến giữa Va-ren và Phan Bội Châu trong nhà tù. Cảnh này được kể và tả bằng ngòi bút linh hoạt và sắc sảo. Trước tiên, tác giả nhận xét khái quát về cuộc diện kiến và tính cách hai nhân vật:

Ôi thật là một tấn bi kịch! Ôi thật là một cuộc chạm trán! Con người đã phản bội giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi ra khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình, lúc này mặt đối mặt với người kia, con người đã hi sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình, song xa lìa quê hương luôn luôn bị lũ này săn đuổi, bị chúng nhử vào muôn nghìn cạm bẫy, bị chúng kết án tử hình vắng mặt và giờ đây đang bị chúng, đeo gông lên vai đày đọa trong nhà giam, ngày đêm bị bóng dáng của máy chém như một bóng ma ám kề bên cổ.

Giữa kẻ phản bội nhục nhã và bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng, giữa hai con người đó xảy ra chuyện gì đây?

Đây là đoạn văn bình luận độc đáo. Nghệ thuật tương phản làm nổi bật sự đối lập giữa tính cách cao thượng của Phan Bội Châu, bậc anh hùng, vị thiên sứ với tính cách đê tiện của Va-ren, kẻ phản bội nhục nhã… Thái độ của tác giả là ca ngợi tinh thần yêu nước, khẳng định chính nghĩa sáng ngời của cụ Phan Bội Châu và khinh bỉ, châm biếm thái độ trơ trẽn cùng bản chất xấu xa của Va-ren.

Trong thời gian tiếp xúc, gần như Va-ren độc thoại, vì cụ Phan Bội Châu không thèm nói chuyện với hắn. Đoạn văn thể hiện rõ động cơ và thủ đoạn của Va-ren trước nhà yêu nước họ Phan. Hắn vuốt ve, dụ dỗ, bịp bợm một cách trắng trợn. Cuối cùng, sự nham hiểm, xảo quyệt của hắn đã bộc lộ hoàn toàn.

Chúng ta hãy theo dõi lời lẽ và hành động của Va-ren. Hắn tuyên bố thả Phan Bội Châu: Tôi đem tự do đến cho ông đây… Tác giả bình luận trò lố thứ hai ấy bằng hình ảnh đặc sắc đầy tính mỉa mai, đả kích: Va-ren tuyên bô vậy, tay phải giơ ra bắt, tay Phan Bội Châu, còn tay trái thì nâng cái gông to kệch đang xiết chặt Phan Bội Châu trong nhà tù ảm đạm. Va-ren đồng ý thả cụ Phan với điều kiện cụ phải trung thành với nước Pháp, phải cộng tác, phải hợp lực với người Pháp để củng cố nền thống trị của Pháp ở Đông Dương (?!)

Những mâu thuẫn trong lời nói và hành động đã tố cáo bản chất của Va- ren là kẻ thực dụng đến mức đê tiện, sẵn sàng làm mọi việc, dù là tồi tệ nhất chỉ vì quyền lợi cá nhân. Bên cạnh đó, nó cũng bóc trần sự thật lời hứa chăm sóc cụ Phan Bội Châu của Va-ren là như thế nào. Không phải hắn trả tự do cho cụ Phan mà là cố tình ép buộc cụ từ bỏ lí tưởng cách mạng cao đẹp, từ bỏ dân tộc mình. Hắn đến gặp cụ Phan vì quyền lợi của nước Pháp thực dân, mà trực tiếp là vì danh lợi của hắn. Thật nực cười khi kẻ phản bội lí tưởng đê tiện nhất lại đi khuyên bảo kẻ trung thành với lí tưởng cao cả nhất. Rõ ràng, lời hứa chăm sóc Phan Bội Châu của Va-ren không chỉ là lời hứa suông mà còn là trò bịp bợm nhố nhăng.

Hắn vờ tỏ ý kính trọng tâm hồn cao thượng và cuộc đời đầy hi sinh của cụ Phan Bội Châu nhưng lại đòi hỏi cụ phải phản bội, đầu hàng. Hắn mang miếng bánh vẽ đẹp đẽ hào nhoáng về tương lai của xứ Đông Dương thuộc địa để dụ dỗ mua chuộc cụ:

Ông Phan Bội Châu, tôi biết rõ tâm hồn cao thượng và cuộc đời đầy hi sinh, nhiều nguy nan của ông và chính tôi, tôi xin là người đầu tiên, với tư cách là toàn quyền Đông Dương, được bày tỏ tấm lòng rất mực quý trọng ông. Song những ý tưởng hào hiệp nhất phải chăng bao giờ cũng hay nhất?…

Chúng ta có thể cùng nhau làm cho nước ông trở thành một quốc gia tân tiến lớn, một xứ tự trị, một nước Pháp ở châu Á!

Va-ren đã tự lột mặt nạ, tự bóc trần bản chất của hắn – một tên chính khách thực dân xảo quyệt, một kẻ phản bội nhục nhã, một con người vô liêm sỉ đáng khinh. Sự đối trá, lừa bịp giấu trong giọng lưỡi ngọt nhạt, phỉnh phờ. Hắn dùng những lời lẽ ấy để chiêu dụ Phan Đội Châu, nhà ái quốc suốt đời xả thân vì chủ quyền độc lập của đất nước.

Trâng tráo hơn nữa là hắn đòi cụ Phan dừng uy tín to lớn của mình để lôi kéo mọi người theo Pháp: chớ tìm cách xúi giục đồng bào nổi lên, hãy bảo họ hợp tác với người Pháp. Va-ren khuyên Phan Bội Châu từ bỏ lí tưởng: để mặc đấy những ý nghĩ phục thù và bắt tay với hắn: ông và tôi tay nắm chặt tay, chúng ta có thể làm được biết bao công việc tốt đẹp cho xứ Đông Dương này.

Vốn tinh quái, hắn biết “tấm gương” của hắn chưa đủ thuyết phục Phan Bội Châu nên hắn còn ca ngợi các bạn học của hắn – những kẻ cũng phản bội như hắn – và coi đó là những “tấm gương” đáng noi theo: Những vị ấy, ngày nay lừng danh cả, đều đã lần lượt đốt cháy những cái mà mình đã tôn thờ và đang tôn thờ những cái mà mình đã đốt cháy. Cách chơi chữ thâm thúy của tác giả thể hiện thái độ khinh bỉ, mỉa mai sâu cay đối với những kẻ phản bội lí tưởng cách mạng, quay sang tôn thờ những điều xấu xa gắn liền với đàn áp, khủng bố, giết chóc, tàn hại những người cùng giai cấp và xâm chiếm đất nước của người khác. Va-ren còn biểu dương cả những tên Việt gian đã theo Pháp. Lời lẽ của Va-ren đã thể hiện rõ bản chất phản bội đê hèn của hắn.

Trơ trẽn hơn nữa, hắn đã tự nhận mình là một kẻ phản bội lại lí tưởng cách mạng của Đảng Xã hội Pháp đang đấu tranh cho công bằng, dân chủ và quyền tự do của con người. Hắn chấp nhận trở thành một quan chức thực dân cao cấp, đại diện cho nước Pháp sang thống trị nhân dân ta. Hắn trâng tráo vỗ ngực khoe với cụ Phan Bội Châu: … ông hãy nhìn tôi này, ông Phan Bội Châu! Trước tôi là đảng viên Xã hội đấy và giờ đây thì tôi làm toàn quyền…!

Thái độ của Phan Bội Châu trước Va-ren như thế nào? Cụ im lặng, phớt lờ, coi như không có hắn trước mặt. Đó là cách bộc lộ thái độ khinh bỉ kẻ thù cao độ. Về sự im lặng, dửng dưng của Phan Bội Châu, tác giả có lời bình hóm hỉnh:

Ừ thì Phan Bội Châu nhìn Va-ren. Nhưng, lạ chưa ! Những lời nói của Va-ren hình như lọt vào tai Phan Bội Châu chẳng khác gì “nước đổ lá khoai” và cái im lặng dửng dưng của Phan Bội Châu suốt buổi gặp gỡ hình như làm cho Va-ren sửng sốt cả người.

Giả sử truyện chấm dứt ở câu: Nhưng cứ xét bình tĩnh, thì đó chỉ là vì Phan Bội Châu không hiểu Va-ren cũng như Va-ren không hiểu Phan Bội Châu thì ý nghĩa của nó vẫn hoàn chỉnh bởi vì hai con người thuộc hai chiến tuyến khác nhau, tôn thờ những lí tưởng khác nhau thì làm sao hiểu được ý nghĩ của nhau và không thể có được tiếng nổi chung. Nhưng tác giả đã nói thêm đoạn kết, trong đó có lời quả quyết của anh lính dõng An Nam và lời suy đoán của tác giả cùng các chi tiết: Sự thay đổi nhẹ trên nét mặt người tù lừng tiếng… đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi… Phan Bội Châu có mỉm cười… như cánh ruồi lướt qua vậy. Những chi tiết đó khắc họa nổi bật thái độ ngạo nghễ cùng tính cách hiên ngang, bất khuất của Phan Bội Châu trước kẻ thù.

Nếu trong đoạn kết ở trên, sự khinh bỉ của Phan Bội Châu được thể hiện bằng thái độ im lặng, dửng dưng và nụ cười nhếch mép khinh bỉ thì ở phần tái bút, sự khinh bỉ ấy lại bộc lộ qua hành động quyết liệt. Như thế là với kẻ thù không đội trời chung, cụ Phan có nhiều cách tỏ thái độ. im lặng, dửng dưng chưa đủ mà cụ còn nhổ vào mặt Va-ren. Cách dẫn chuyện úp úp mở mở của tác giả thật hóm hỉnh và thứ vị. Nó làm tăng thêm ý nghĩa đả kích thực dân Pháp mà tác giả đặt ra trong tác phẩm.

Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu thành công trước tiên là trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Tác giả chủ yếu dùng nghệ thuật so sánh, đối chiếu để tạo ra sự tương phản cực độ giữa Va- ren và Phan Bội Châu. Điều đó thể hiện rõ nhất ở cuộc “đối đầu” giữa quàn Toàn quyền Đông Dương và Phan Bội Châu – một người tù “đặc biệt” của chính quyền thực dân Pháp. Va-ren càng hùng hồn tới mức trơ trẽn đề cao quan điểm sống của những kẻ phản bội lí tưởng, ruồng bỏ giai cấp mình bao nhiêu thì Phan Bội Châu càng tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng bấy nhiêu.

Qua đó tác giả làm nổi bật thái độ bịp bợm, dối trá, bản chất bỉ ổi, đê tiện của kẻ cướp nước và ca ngợi bản lĩnh vững vàng, bất khuất của nhà chí sĩ yêu nước. Đây cũng là sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng, giữa “lí tưởng” của một kẻ cướp nước và với lí tưởng của một người anh hùng yêu nước.

Thành công thứ hai của tác phẩm là cách dẫn chuyện của tác giả. Nội dung câu chuyện do tác giả tưởng tượng ra trên cơ sở các sự kiện và nhân vật có thật nhưng tất cả đã hiện lên thật cụ thể, sống động. Đối với nhân vật Va-ren, tác giả vừa kể vừa xen vào những lời bình ẩn chứa thái độ mỉa mai, giễu cợt và khinh bỉ. Giọng kể mới nghe có vẻ khách quan (kể lại sự việc như nó đang diễn ra), nhưng thực chất lại chứa đầy chủ ý đả kích của tác giả.

Chủ ý ấy thể hiện rõ qua cách lựa chọn chi tiết, hình ảnh, cách bình phẩm… Riêng đối với cụ Phan Bội Châu, lời kể, lời bình của Nguyễn Ái Quốc thật đa dạng, lúc thì mềm mại, trữ tình, lúc thì mạnh mẽ cứng cỏi, đầy khí phách, xứng với tầm vóc vĩ đại của nhà chí sĩ yêu nước – niềm tự hào kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.

Câu trả lời:

Hà Nội có nhiều con đường đẹp trồng sấu: Trần Phú, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo… nhưng nhiều và đẹp nhất vẫn là phố Phan Đình Phùng. Phố rộng, hai bên đường và chia đôi một bên vỉa hè, là ba dãy cây sấu gần trăm năm tuổi. Cao hai mươi, hai nhăm mét, gốc sần sùi những bạnh, những vè... ba dãy cây sấu đứng vững chãi, tỏa bóng mát bốn mùa. Trưa hè dù nắng đến mấy, nhìn từ đầu hay cuối phố cũng thấy những tàng cây xanh mát giao nhau, rợp tối cả con đường, khiến ai đi qua cũng muốn chầm chậm lại, để kéo dài thêm khoảng khắc mát mẻ, trong lành dưới những hàng cây.

          Sấu là loài cây rất lạ, lá rất nhiều và xanh suốt bốn mùa. Cuối xuân, đầu hạ, cây sấu đồng thời vừa trút bỏ lá già, vừa thay lá non. Cứ mỗi trận gió, hàng ngàn chiếc lá vàng tươi lại lìa cành, bay phơi phới, đậu trên vai trên tóc người qua, dát vàng rực rỡ những vỉa hè phố cũ. Những năm cuối cấp phổ thông, đi học về trên con đường này, trò chơi ưa thích của chúng tôi là đuổi bắt những chiếc lá vàng bay. Có nhiều chiếc lá đã được cất vào thơ, ép vào trang lưu niệm. Con đường rắc đầy lá vàng ấy, khi xa Hà Nội, tôi nhớ đến nao lòng.

          Rồi những chùm hoa sấu trăng trắng, nhỏ xinh hình cái chuông đã bật ra cùng với màu lá mới xanh non. Không thơm nồng nàn như hoa sữa, mùi hoa sấu thơm nhẹ, man mác mà thanh tao. Bây giờ, trẻ con không lấy chỉ xâu hoa rụng thành chuỗi đeo cổ nữa. Những bông hoa sấu rụng thành lớp mỏng, trắng cả gốc cây sau những trận mưa đầu hạ. Và một hôm nào đó, như theo lệnh chỉ huy của một nhạc trưởng, từ những vòm cây xanh, dàn nhạc ve bỗng đồng loạt cất lên bản giao hưởng mùa hè. Ấy là lúc Hà Nội bước vào mùa quả sấu.

          Trước sấu rẻ lắm, một cân sấu chỉ dăm bảy ngàn đồng, câu “bọn trèo me, trèo sấu” có thời dùng mang tính miệt thị để chỉ những người vô gia cư trên đường Hà Nội. Một ngàn rưởi gốc sấu già trồng trên các đường phố, công viên của Hà Nội do công ty Công viên và cây xanh quản lý chỉ mang lại món thu nhập thêm không đáng kể cho công nhân. Dăm năm trở lại đây, sấu bỗng trở thành loại quả được giá, làm cho anh bạn tôi chợt nảy ra ý định trồng sấu để làm giàu.

          Thiên nhiên thật kì diệu, cũng đất ấy, nắng ấy, gió ấy, sao có cây cho quả ngọt ngào, có cây lại cho vị chua như sấu. Cây sấu chua, chua cả từ cái lá, từ bông hoa bé xíu. Còn quả thì… Trời ơi, chỉ vừa nghĩ đến, nước miếng đã tứa ra khắp chân răng, vừa sợ, lại vừa thích. Chả thế mà có người lí giải cái tên quả sấu rằng: vì quả ăn chua quá, nhăn hết mặt mũi lại, xấu lắm, nên mới gọi là quả sấu.

          Mùa này quả sấu còn non, chỉ nhỏ xinh như đầu ngón tay, cùi mỏng, vị chua nhè nhẹ, làm món sấu dầm đường tuyệt ngon. Ra chợ, một cân sấu giá mấy chục ngàn, nếu yêu cầu gọt vỏ, trả thêm tiền thì ngang giá một cân thịt lợn ngon. Đắt, nhưng người bán cũng không gọt xuể. Quả sấu bé, gọt xong một cân thì hỏng hết móng tay còn gì. Các mợ, các cô bây giờ thà mất thêm ít tiền, chứ không thích hỏng búp sen đâu. Mang sấu về, rửa sạch nhựa, lấy dao chích nhẹ một hình chữ thập vào quả, nông thôi, kẻo khi làm xong, quả sấu vỡ ra, không đẹp. Ngâm nước vôi khoảng một giờ cho bớt chua. Nước đường thắng lên, thả chút gừng cạo vỏ, đập dập cho thơm, đổ ào tất cả sấu vào, đảo lên rồi bắc ra ngay. Để lâu, quả sấu chín nhũn, coi như hỏng. Cứ ngâm sấu trong nước đường cho ngấm. Khi nào ăn, múc ra bát sứ trắng nhỏ, dùng đoạn cật tre cắt vát đầu xiên từng quả, ngậm hờ trên môi, khẽ mút lấy vị ngọt của đường, vị chua thanh của sấu, vị thơm của gừng, để cảm nhận hết nét thanh tao của món quà, bỗng thấy cái nóng nực của mùa hè giảm hẳn.

          Công dụng chính của quả sấu là để nấu canh chua. Dù cái nắng hè có làm cho mệt mỏi, biếng ăn, nhưng bữa cơm có bát canh chua thịt nạc hay canh hến nấu với sấu, vẫn ngon miệng như thường. Rau muống luộc vớt, thả tiếp vào nồi dăm bảy quả sấu, nửa dầm làm canh, nửa cho vào bát nước mắm ớt thay chanh. Miếng cùi sấu dầm trong nước mắm, vừa cay, vừa mặn, vừa chua, ngon hơn cà pháo. Nhiều nhà nghiện sấu, lúc mùa rộ mua cả chục cân, giữ trong ngăn đá tủ lạnh, ăn dần.

          Vãn mùa, trái sấu chín vàng thơm, vỏ lốm đốm nâu. Người ta tuyển chọn những trái to, ngon nhất để bán rong. Trên các con phố cổ, những lúc lang thang dạo xem quần áo, giày dép, thế nào cũng gặp các cô gái bưng những khay sấu vàng ươm, cắt xoáy trôn ốc rất khéo. Trông quả sấu vẫn tròn, nhưng cầm lên, lại giãn ra như cái lò so. Trái sấu vàng, ruột sấu hồng hồng, trong đính cái hạt nâu, điểm chút muối ớt đỏ; ngọt, chua, cay, mặn quyện vào nhau, mời gọi dịch vị ứa ra. Chẳng có mợ nào, cô nào cầm lòng được, lại bị ăn dỗ khối tiền. Còn nữa, ai chẳng có một thời học sinh vô tư lự, đi xem phim cùng bạn bè, chia nhau những quả ô mai sấu màu nâu, phủ lớp áo cam thảo vàng. Món quà rẻ tiền đó, rưng rưng bao chua ngọt, mặn mà, thơm thảo. Giờ đây, bạn ở phương trời nào, có còn nhớ hay không?

          Nhà văn Băng Sơn đã từng viết: “Máu người Hà Nội có vị sấu chua”. Vâng, có lẽ thế. Đã là người Hà Nội, ai chẳng mang trong mình tình yêu với vòm xanh cây sấu, da diết tiếng ve gọi về một trời nhớ thương, một trời kỉ niệm, xao xuyến lòng kẻ ở người đi…

          Hà Nội của tôi đang vào mùa sấu. 

Câu trả lời:

Buổi lễ kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam kết thúc trong niềm hân hoan. Không khí sôi động của buổi lễ kỷ niệm trọng đại này dần nhường lại cho không gian yên ắng đến lạ kỳ. Lúc này, sân trường chỉ còn lác đác một vài học sinh ngồi đó để chờ ba mẹ đến rước. Ba tôi hôm nay lại đến muộn. Tôi lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít cả một khoảnh sân. Một mình bên chiếc ghế đá, tôi bỗng nhớ lại một kỉ niệm xưa, thời mà tôi còn là cậu học sinh lớp năm trường Nguyễn Đình Chiểu, kỷ niệm về cô giáo của tôi ngày đó.
Tôi vẫn nhớ, khi còn học tiểu học, môn Toán của tôi rất khá. Điểm số của tôi luôn rực rỡ những con chín, mười tuyệt đẹp. Tôi luôn dẫn đầu lớp về điểm số. Tôi tự hào và hãnh diện về mình lắm. Trong tâm trí của cô chủ nhiệm đáng kính, của cha mẹ tôi, tôi hiện lên trong hình ảnh một học sinh giỏi, một đứa con ngoan. Chính vì những nhận thức, đánh giá bản thân quá mức đó, tôi đâm ra chủ quan và xem thường mọi thứ. Không biết từ bao giờ, tôi không chăm chỉ làm bài tập Toán cô cho nữa. Tôi ham mê đọc truyện tranh và thỉnh thoảng chỉ làm một số bài toán khó. Ở trên lớp, tôi chẳng còn chăm chú nghe giảng hay tập trung làm bài. Tôi ngập trong sự chủ quan, kiêu hãnh và bê trễ cho đến một ngày kia… Kỳ kiểm tra học kỳ một đã đến, tôi bước vào phòng thi với bao niềm phấn khích và tràn đầy tự tin. “Thế nào mình cũng đạt điểm mười lần này thôi, như bao lần khác ấy mà.” Nhưng mọi chuyện lại không như tôi muốn. Tôi bị sụp ngã ngay từ những câu đầu. Đó là những câu hỏi lý thuyết và bài tập rất căn bản, nhưng do không học bài nên tôi không biết cách làm. Mặt tôi lấm tấm mồ hôi, tim tôi đập thình thịch, đầu óc tôi rối bời, chẳng còn có thể tập trung tính toán nữa. Tôi tự hỏi mình phải xoay sở thế nào đây. Bước ra khỏi phòng thi, tôi như người mất hồn. Những ngày sau đó, tôi vẫn không sao quên được nỗi lo sợ ám ảnh trong phòng thi hôm ấy. Và điều gì đến rồi cũng đến…

Hôm phát bài thi môn Toán, khuôn mặt cô tôi có vẻ đượm buồn. Tôi lặng người với ý nghĩ rằng cô buồn vì kết quả bài thi của tôi. Quả không sai, khi bài thi môn Toán được chuyền đến tay tôi, tôi không thể bình tĩnh được nữa. Trời ơi! Con “năm” to đùng cùng những vệt đỏ đầy kín cả bài thi. Đây có phải là sự thật không vậy? Tôi đã bị điểm kém môn Toán, môn học sở trường của tôi. Tôi thấy bế tắc vô cùng. Kết quả này rồi sẽ được đưa đến tay cha mẹ, cha mẹ sẽ nghĩ sao đây: thất vọng và mất hết hy vọng về tôi, đứa con trai duy nhất của cả gia đình. Cha mẹ luôn đặt niềm tin vào tôi, luôn tự hào mỗi khi nhắc đến tôi. Cha mẹ ơi, con có lỗi với cha mẹ nhiều lắm! Chưa hết nữa, bạn bè sẽ nghĩ sao về tôi đây? Chúng bạn sẽ mỉa mai, chế giễu tôi suốt ngày. Trong phút chốc, tôi bỗng đánh mất mình. Một ý nghĩ dại khờ chợt lóe lên trong tôi vào giờ tan học hôm ấy. Cô đã để quên phiếu điểm trên bàn. Khi ấy, cả lớp về hết, chỉ còn Nam và tôi ở lại. Nam là một học sinh yếu của lớp về môn Toán. Tôi liền bàn bạc với Nam và dụ nó lên trên bàn giáo viên sửa điểm cho hai đứa. Chuyện này sẽ được giữ bí mật giữa hai đứa mà thôi.
Sau ngày hôm đó, vào thứ hai đầu tuần, cô đã phát hiện ra chuyện đó. Trịnh trọng và nghiêm khắc, cô hỏi cả lớp rằng ai đã sửa điểm cho tôi và Nam. Do lúng túng và sợ hãi, Nam đứng lên nhận lỗi và cúi mặt xuống. Giọng cô buồn bã hỏi Nam:
_ Tại sao em sửa điểm giúp bạn?
Nam không trả lời mà chỉ cúi xuống, thỉnh thoảng liếc sang nhìn tôi. Tôi bối rối và hoang mang vô cùng. Tôi phải làm sao đây? Tại sao tôi lại hành động như thế, một hành động thật xấu xa và hèn nhát? Tại sao tôi không nghĩ đến hậu quả sau này mà chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt? Cha mẹ, thầy cô, bạn bè sẽ nghĩ sao về tôi đây: một học sinh cá biệt, luôn toan tính những điều xấu xa cốt để đạt được điểm cao ư? Một đứa trẻ khi phạm sai lầm lần đầu tiên sẽ làm người ta có thành kiến mãi. Thế thì còn gì là lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của tôi nữa. Tôi hối hận và xấu hổ vô cùng. Bằng tất cả lòng can đảm, tôi đứng dậy và nhận lỗi với cô mà nước mắt rơm rớm. Mặt tôi xanh xao, môi run run bần bật, tay chân không thể cử động được. Bằng tất cả lòng khoan dung, độ lượng, cô đã cân nhắc rất nhiều và chấp nhận tha thứ cho tôi. Tuy nhiên, cô đã cảnh cáo tôi trước lớp. Cuối buổi học hôm ấy, cô đã gọi tôi lại và nói:
_ Em đã chứng tỏ được sự ăn năn của mình bằng cách nhận lỗi. Em đã cho cô thấy rằng em là người luôn muốn vươn lên, luôn muốn phục hồi danh dự cho mình, dù điều đó đã khiến em nhận điểm xấu. Em phải luôn cố gắng học và hãy nhớ rằng: “Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”.
Khi về nhà, tôi đã thú thật với ba mẹ những chuyện đã xảy ra và cầu mong được tha thứ. Ba tôi chẳng nói gì cả, chỉ thỉnh thoảng lại thở dài. Tôi thoáng thấy ánh mắt đượm buồn của mẹ. Mẹ ân cần dạy tôi:
_ Con ơi, con người ai cũng một lần phạm lỗi trong đời. Con biết lỗi và tự nhận lỗi là một điều tốt. Lần này ba mẹ tha thứ cho con. Nhưng con phải chăm chỉ học tập và không được làm như thế nữa.

Tôi gật đầu, khuôn mặt tỏ ra sung sướng đến không nói nên lời. Kể từ hôm đó, tôi phấn đấu hết mình trong học tập, vào lớp thì chăm chú nghe cô giảng bài, về nhà thì hoàn thành đầy đủ bài tập cô cho và còn dành thời gian tìm thêm những bài tập khó đề giải nữa.

Trải qua sự việc ấy, đến bây giờ, nó vẫn còn là bài học đáng nhớ và kỉ niệm khó phai trong cuộc đời tôi. Giờ đây, tôi đã là một học sinh lớp Chín. Bốn năm đã trôi qua rồi, cô giáo chủ nhiệm lớp Năm kính yêu của tôi giờ này có còn dạy ở ngôi trường cũ không? Gửi gió, gửi mây, hãy mang giúp tôi những lời ăn năn chân thành nhất đến cô. Cô ơi, kỉ niệm sẽ mãi in sâu trong em, luôn bên cạnh nhắc nhở em không được phạm sai lầm đó thêm một lần nào nữa. Khi đó, cô có thật sự tha thứ cho em không?

Tiếng bước chân người và những lời chuyện trò chợt cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Tôi lặng thầm trong phút chốc và cất bước ra về, trong lòng vẫn lâng lâng kỷ niệm đã qua. Chính nhờ nó, tôi đã hiểu được lòng trung thực của một con người quý giá đến nhường nào. Trong tôi bỗng có một mong muốn tha thiết: ngày hôm nay, 20/11, tôi sẽ cùng những đứa bạn thân hồi tiểu học trở về trường xưa thăm cô. Tôi tin rằng ba tôi sẽ ủng hộ ý định này của tôi. Trong phút chốc, tôi thấy mình như đang đứng giữa sân trường tiểu học năm xưa, xung quanh vẫn là cô và bạn bè ngày xưa ấy. Chúng tôi nói cười rôm rả với nhau. Tôi thấy ấm lòng lạ khi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên gương mặt nhân hậu dịu dàng của cô tôi.

Ôi, yêu sao những kỷ niệm dấu yêu một thời!



Câu trả lời:

Cây tre gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược – nhân tai.

Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá… bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Về tính năng, không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặt ngoại xâm…

Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm… nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay.

Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.

Câu trả lời:

*ở các nước Đông Nam á hiện nay là:
- Các nước Đông Nam á đều có thuận lợi chung là:

+Đều có tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản đất rừng rất phong phú có thể khai thác chế biến và xuất khẩu với quy mô
lớn.

+Các nước đều có nguồn lao động dồi dào, trình độ chuyên môn, kỹ thuật tay nghề được nâng cao

* Những khó khăn trong tăng trưởng kinh tế
-Thiếu vốn đặc biệt là các vốn ngoại tệ.

- Các nước Đông Nam á đều có kỹ thuật công nghệ còn rất lạc hậu,cho nên từ trước đến nay các nguồn khai thác tài nguyên
đều phải dựa vào nước ngoài rất tốn kém và hiệu quả thấp .

- Trong tình hình kinh tế quốc tế ngày nay thì giá xuất khẩu nguyên liệu ngày càng rẻ mạt, cho nên việc xuất khẩu khoáng
sản ở các nước Đông Nam á trước đây được coi là quyền lợi thì hiện nay lại trở thành thế yếu.

-Do công nghệ của thế giới ngày càng phát triển hiện đại thì nhu cầu về lao động ngày càng giảm đi . Đặc biệt, là lao động
thô sơ cho nên thế mạnh trong xuất khẩu lao động của các nước Đông nam á tạo thành thế yếu cho nên trong tăng trưởng Kinh tế
xã hội ở các nước ĐNA hiện nay, nhiều khó khăn hơn là thuận lợi, vì thế trong quá trình tăng trưởng kinh tế các nước này đã tập
trung vào những hướng chính sau đây để khắc phục:
 

*Biện pháp khắc phục:

- Các nước ĐNA vẫn coi trọng sản xuất mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu, đặc biết hướng nhiều vào sản xuất các mặt
hàng công nghệ chế biến XK để giải quyết việc làm tại chỗ cho nguươì lao động với xuất khẩu hiệu quả cao.

- Đẩy mạnh phát triển các ngành du lịch, dịch vụ như du lịch giao thông , thông tin liên lạc gia công xuất khẩu là để thu hút
nhiều lao động, nhiều nguồn ngoại tệ và phát huy tiềm năng thiên nhiên xã hội của mình.

- Phải đầu tư phát triển mạnh các khu chế xuất mà được trang bị kỹ thuật hiện đại có khả năng, sản xuất nhiều nguồn hàng
xuất khẩu và khu chế xuất như Ninh Trung- TânThuận.

- Vì các nước ĐNA cón hiều điều kiện tài nguyên trong thiên nhiên tương đồng nhau trong cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp
giống nhau, vì vậy các nước này cần phải chọn cho mình những mũi nhọn cơ bản, độc đáo để vừa phát triển vừa có thế cạnh tranh
với các nước khác như Sigapo, mũi nhọn điện tử như Inđonêxia; mũi nhọn nhất vừa là chế biến nông, lâm, thuỷ hảI sản vừa là khai
thác dầu khí và du lịch.

Câu trả lời:

Qua phân tích các đặc điểm về thiên nhiên và kinh tế xã hội ta rút ra duyên hải miền Trung có những thế mạnh chính trong
phát triển kinh tế xã hội như sau:

1.Thế mạnh về phát triển kinh tế biển là
+Duyên hải miền Trung là vùng biển rộng vì bờ biển dài tới 1800 km, đồng thời lại là vùng biển nóng nên có trữ lượng hải
sản lớn nhất nhì cả nước đó là có 2 ngư trường lớn Ninh Thuận- Bình Thuận, Hoàng sa- Trường Sa, 77% tổng số bãi cá tôm cả nước
tập trung ở vùng này với trữ lượng hải sản 600000 tấn/ năm cho nên vùng này có nhiều thuận lợi với phát triển công nghiệp đánh
bắtchế biến hải sản.

+Nhờ có vùng biển rộng , bờ biển kéo dài lại có bờ biển rất khúc khửu, tạo thành nhiều vũng vịnh kín gió cho phép xây
dựng được nhiều cảng biển lớn như Cảng cửa Lò, Thuận An, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang... Vì vậy, duyên hải miền Trung rất
thuận lợi với phát triển giao thông đường biển và quan hệ quốc tế.

+Vì duyên hải miền Trung là cửa ngõ thông ra biển ở Lào, nên vùng này có thể xây dựng được nhiều cảng biển quốc tế như
cảng Cửa Lò (Vinh) cảng Đà nẵng...

+ Duyên hải miền Trung có thềm lục địa rộng và rất nông, ở đó đã phát hiện mỏ dầu khí lớn điển hình như bể Trầm Tích
Quảng Nam đà Nẵng, đấy là cơ sở để đẩy mạnh phát triển công nghiệp khai thác dầu khí mà hiện nay ta đang xây dựng nhà máy
lọc dầu Dung Quất số 1 ở Quảng Ngãi để đón trước sự khai thác dầu khí ở vùng này.

+Duyên hải miền Trung mặc dù đã có nhiều cảng biển lớn như nêu trên nhưng vẫn còn nhiều tiềm năng lớn để xây dựng
nhiều cảng biển lớn nữa, mà lại lại là cảng nước sâu như cảng Chân Mây (Thừa Thiên Huế) cảng Dung Quất (Quảng Ngãi) Văn
Phong (Khánh Hoà).

+Duyên hải miền Trung nhờ có cảnh quan biển rất hấp dẫn bởi không những có bờ biển dài và lại có nhiều núi đá đâm
xuyên ra biển, tạo thành nhiều đèo cao dốc đứng điển hình như đèo hải Vân, đèo Cả, đèo Cù Mông, đặc biệt có nhiều bãi tắm nổi
tiếng như Cửa Lò, Nha Trang chính là nguồn tài nguyên rất hấp dẫn để phát triển du lịch biển.
Như vậy, qua phân tích ta thấy biển được coi là thế mạnh nhất để phát triển kinh tế trong vùng, nếu như được đầu tư khai
thác triệt để với côngnghệ tiên tiến thì nền kinh tế biển ở duyên hải miền Trung được coi là ngành mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế
của vùng.

2.Thế mạnh phát triển lâm nghiệp
+Duyên hải miền Trung được coi là vùng có tiềm năng và tài nguyên rừng lớn thứ 2 cả nước sau TâyNguyên với S đất Lâm
nghiệp là 6 triệu ha trong đó S đất có rừng là 3 triệu ha độ che phủ rừng hiện nay là 34% . Trong rừng duyên hải miền Trung có
nhiều loại gỗ quí như Đinh, Lim, Sến , táu, Nứa, Luồng, nhiều loại động vật quí như Voi, Bò tót, Trâu rừng... Vì vậy, duyên hải
miền Trung có thể cho phép khai thác với sản lượng gỗ 700 ngàn m3 gỗ /năm với sản lượng tre nứa luồng lớn nhất cả nước, chính
đó là cơ sở để phát triển nhiều nhà máy, nhiều trung tâm công nghiệp chế biến gỗ lâm sản nổi tiếng như Vinh, Huế, Đà Nẵng...

+Phát triển lâm nghiệp duyên hải miền Trung còn có ý nghiã to lớn với vấn đề bảo vệ tàI nguyên môi trường, giữ gìn cân
bằng hệ sinh thái vừa hạn chế lũ lụt ở đồng bằng, vừa chống xói mòn đất, vừa hạn chế chống cát bay, cát lấn và những cồn cát di
động ven biển.
Như vậy, qua phân tích ta tháy việc phát triển lâm nghiệp ở duyên hải miền Trung không những có giá trị kinh tế lớn mà
còn có giá trị lớn hơn nữa là tạo ra môi trường sinh thái cân bằng để tạo điều kiện phát triển một nền kinh tế bền vững cho vùng

3.Về phát triển CN
+Là một trong những vùng giàu tài nguyên thiên nhiên khoáng sản ở cả trên mặt đất và dưới lòng đất, dưới thềm lục địa.
Tài nguyen khoáng sản /mặt đất nổi tiếng với nhiều mỏ đá vôi tập trung chủ yếu ở trong khu vực BTB, Thanh Hoá, Nghệ
An, Quảng Bình. đặc biệt có dãy đá vôi lớn nhất Kè Bản (QBình) là nguyên liệu để sản xuất xi măng rất tốt.
Bên cạnh đá vôi còn nhiều loại đá xây dựng granít, đá hoa cương tập trung nhiều nhất ở khu vực Thanh Hoá, Quảng Bình là
nguyên liệu để sản xuất đá ốp lát có giá trị ks dưới lòng đất rất phong phú, điển hình với nhiều mỏ khoáng sản nổi tiếng: sắt lớn
nhất cả nước ở Thạch Khê (hà Tĩnh), Măng gan (Nghệ An) thứ 2 cả nước sau Cao Bằng, Crôm ở Cổ định (Thanh hoá) là mỏ duy
nhất của cả nước, Thiếc ở (Quỳ Châu, Quỳ Hợp) lớn nhất cả nước. Vàng (Bồng Miêu) duynhất cả nước, đó là những loại khoáng
sản làm cơ sở để thực hiện công nghiệp hoá trong vùng; đồng thời mở rộng hợp tác liên doanh quốc tế trong lĩnh vực khai thác và
xuất khẩu.

Ngoài khoáng sản kim loại/ đất liền còn nổi tiếng có mỏ đá quý Quỳ Hợp lớn nhất cả nươc.

Bên cạnh đá quý ở khu vực Đồng Hới có mỏ đất sét, Cao lanh lớn vào loại nhì cả nước. Dọc ven biển có nhiều cát thuỷ tinh
còn ở biển Quảng Bình Nam ô (Đà nẵng) . Cam Ranh (Khánh Hoà), Ninh thuận+ Bình Thuận trong đó lại chứa nhiều chất ô xít, Ti
tan vừa là nguyenliệu sản xuất kính thuỷ tinh vừa là khoáng sản để luyện kim đen rất tốt và cát thuỷ tinh là mặt hàng xuất khẩu rất
có giá trị.

Dưới thềm lục địa phát hiện bể Trầm Tính Quảng Nam Đà Nẵng có trữ lượng dầu khí lớn đang chuẩn bị khai thác mà ngày
nay ta đã triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất để đón trước sự khai thác dầu khí ở vùng này.
Duyên hải miền Trung vì tiềm năng khoáng sản như vậy nên nếu đầu tư vốn và KHKT thì nhanh chóng biến vùng nàythành
1 trong những vuìng có cơ cấu kinh tế CN phát triển.

4.Thế mạnh về phát triển CN năng lượng diện.
Duyên hải miền Trung có tới 54 con sông lớn, nhỏ khác nhau với 14 hệ thống sông all có trữ lượng khoảng 10 tỷ m3/năm,
nhưng sông ngòi ở duyên hải miền Trung phần lớn đều dốc và ngắn nên nước chảy xiết tạo ra trữ lượng thuỷ điện khá lón, với
khoảng gần 30% tổng trữ năng lượng thuỷ điện cả nước. Cho nên sông ngòi duyên hải miền Trung cho phép xây dựng nhà máy
thuỷ diện cỡ trung bình và nhỏ. Vì vậy, hiện nay ta đã khánh thành 1 số máy thuỷ diện như thuỷ diện sông Hinh 70.000 kW , thuỷ
điện Vĩnh Sơn 60.000 kW) Thuỷ điện Bàn Thạch 200.000 kW và đang tiếp tục xây dựng một hệ thống nhà máy thuỷ điện như thuỷ
điện Hàm Thuận (Bình Thuận) thuỷ điện ĐaMi (Ninh Thuận) thuỷ điện Bản Mai (Nghệ An)

Ngoài thuỷ điện là chính duyên hải miền Trung đặc biệt là Duyên Hải Nam Trung bộ có nguồn tài nguyên năng lượng mặt
trời, gió (đặc biệt trên quần đảo Trường sa) là tiềm năng lớn để phát triển CN nhiẹt điện từ năng lượng mặt trời, sức gió.

5.Thế mạnh phát triển du lịch.
Duyên hải miền Trung có tiềm năng du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn rất đa dạng, phong phú.

-Về tiềm năng tự nhiên phát triển du lịch nổi tiếng có nhiều hang động nổi tiếng là động Phong Nha, nhiều núi đẹp Ngũ
hành Sơn, Bạch mã, Bà nà...., Có nhiều đèo cao với cảnh quan hùng vĩ đèo hải Vân, đèo Ngang, đèo Cả, Cù Mông... duyên hải miền
Trung lại có nhiều dãy núi dâm ngang ra biển tạo thành nhiều bán đảo với cảnh quan nổi tiếng như bán đảo Sơn Trà, Núi Đại Lãnh,
Hòn Gốm... đặcbiệt nổi tiếng hơn nữa là nhiều bãi tắm đẹp từ Sầm Sơn, Cửa Lò, Nha Trang... Cho nên cảnh quan thiên nhiên của
duyên hải miền Trung rất hấp dẫn với du lịch trongnước và quốc tế.
Tài nguyên du lịch nhân văn trong vùng cũng nổi tiếng bậc nhất cả nước.

+Trước hết cả nước ta có 3 di sản văn hoá thế giới thì đều tập trung ở vùng này, đó là Cố đô Huế, phố cổ Hội an, Thánh địa
Mỹ Sơn.

+Với nền văn hoá từ lâu đời nổi tiếng văn hoá Sa huỳnh. Đặc biệt, nổi tiếng nhất thời nay là có nền văn hoá Chàm với nhiều
lễ hội độc đáo như lễ múa Champa, có kiến trúc Tháp Chàm.
Duyên hải miền Trung luôn tự hào là nơi có nhiều danh nhân, nhiều lãnh tụ cách mạng nổi tiếng như chủ tịch Hồ Chí Minh,
Trần PHú, Nguyền Thị Minh Khai...

Giá trị tổng hợp của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của duyên hải miền Trung là cơ sở to lớn để phát triển ngành
công nghiệp du lịch trong nước và quốc tế với qui mô lớn...