Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 69
Số lượng câu trả lời 52
Điểm GP 21
Điểm SP 68

Người theo dõi (9)

Nguyễn Văn Tân
Nguyen Thi Tra My
Duy Trần Khánh
Linnguhoc
nguyenthithuhang

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Trong gia đình, người tôi yêu mến và thân thiết nhất chính là anh Hai. Cách đây hai năm, anh Hai tôi vừa tốt nghiệp đại học quân sự đã được điều đến vùng biên giới để công tác. Từ ngày ra đi, anh rất ít khi về thăm nhà, chỉ thỉnh thoảng viết thư cho gia đình. Khi còn ở nhà, anh rất thương yêu tôi. Mỗi tối anh đều kèm tôi học, giúp tôi giải toán thật nhanh. Tình cảm giữa hai anh em tôi vô cùng thắm thiết. Nay anh đi xa, tôi buồn và thấy cô đơn nhiều lắm.

Ngày mai có bài thi môn toán nên tôi cố gắng giải các đề ôn tập để làm bài thi thật tốt. Tôi đã giải gần hết các bài toán, chỉ còn duy nhất một bài rất khó, tôi suy nghĩ mãi mà không tìm được lời giải. Bây giờ, tôi chỉ ước có anh Hai bên cạnh tôi để giảng bài cho tôi. Trời đã khuya, bài toán khó khiến tôi mệt mỏi và mọi thứ xung quanh tôi mờ dần, mờ dần…

Bỗng, có tiếng gõ cửa với tiếng gọi quen thuộc: “Nhóc ơi, ra mở cửa cho anh!” A, đó chính là anh Hai! Anh Hai đã về rồi. Tôi nhảy cẫng lên rồi vội mở cửa, đưa anh vào nhà. Anh đặt ba lô xuống đất rồi xoa đầu tôi:

_ Em đang giải toán à? Giỏi quá vậy ta!

Rồi anh kéo tôi cùng ngồi xuống ghế, hỏi thăm về chuyện học hành của tôi. Tôi hào hứng khoe với anh về những thành tích học tập của mình. Anh nghe xong, cười đắc chí:

_ Thế mới là em của anh chứ!

Tôi đòi anh kể chuyện những ngày ở biên giới. Anh vui vẻ kể tôi nghe hàng tá chuyện vui của đời quân ngũ. Lúc chăm chú ngồi nghe anh kể, tôi mới để ý thấy rằng da anh tôi đen hơn trước rất nhiều, có lẽ do anh luôn phải dãi nắng dầm sương. Cả người anh trông cũng to lớn, vạm vỡ hơn trước nhờ rèn luyện sức khỏe hằng ngày để khỏe mạnh, đủ sức chống chọi với thời tiết khắc nghiệt vùng biên giới. Nhưng đôi mắt anh vẫn sáng và tinh anh như ngày nào. Anh vẫn nhìn tôi thật dịu dàng và trìu mến.

_ Em gái của anh lớn quá rồi! Ở nhà có nhớ anh nhiều không? Không có anh giảng bài chắc em gặp rắc rối nhiều với các bài toán khó phải không? Dù anh không giúp em học như ngày trước được nữa nhưng anh vẫn luôn cổ vũ cho em. Đừng bao giờ nản lòng em nhé! Phải học thiệt giỏi để anh còn khoe em gái ngoan của anh với các đồng chí chứ.

_ Em hứa sẽ cố gắng học, không làm anh Hai thất vọng đâu. Em phải thật xứng đáng là em gái của một chiến sĩ bộ đội chứ.

Anh ôm tôi vào lòng, vỗ vai tôi rồi đứng lên, đeo ba lô và bước ra cửa. Anh vẫy tay chào:

_ Anh đi đây! Nhiệm vụ đang chờ anh!

Anh bước ra khỏi cửa. Cánh cửa đóng sầm lại khiến tôi giật mình choàng tỉnh. Ồ, hóa ra đó chỉ là một giấc mơ.

Dù chỉ gặp được anh Hai trong giấc mơ nhưng tôi vẫn cảm thấy rất vui. Khi tỉnh giấc, tôi cảm thấy khỏe khoắn và đầu óc minh mẫn hẳn lên. Tôi quyết tâm giải bằng được bài toán khó này để không phụ lòng mong mỏi của anh tôi. Ngày mai, sau khi thi xong, tôi sẽ viết thư kể cho anh nghe giấc mơ vừa rồi, chắc là anh Hai sẽ vui lắm.

 

 

Câu trả lời:

* Những định hướng phát triển kinh tế - xã hội ĐBSH hiện nay.
- Cần phải phát triển kinh tế - xã hội theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào chuyển từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp
là chính sang cơ cấu kinh tế công nghiệp là chính.
 

* Cơ sở khoa học của định hướng này là:
- Trước hết đất nông nghiệp trong vùng rất ít hiện nay chỉ có khoảng 70 vạn ha với bình quân đất trên đầu người thấp nhất
cả nước 0,46 ha/người, trong khi đó dân số trong vùng vẫn tiếp tục tăng thêm mặc dù tốc độ tăng đã giảm dần.

             + Khi đất nông nghiệp ngày càng giảm và dân số ngày càng tăng thì buộc người nông dân phải tiếp tục phải đầu tư thâm
canh cao hơn nữa để tăng năng suất cây trồng, nhưng lại thiếu vốn nên không đủ khả năng hoàn trả lại chất d2 cho đất nên đất đai
ngày càng thoái hóa giảm độ phì - năng suất cây trồng giảm theo.

             + Mặc dù năng suất cây trồng, vật nuôi ở ĐBSH hiện nay đã khá cao so với cả nước (năng suất trung bình 99 đạt 61 tạ/ha và có nhiều cánh đồng, nhiều huyện từ 8-10 tấn/ha, nhưng có thể năng suất lương thực của vùng đang dần dần tiến tới giới hạn cho nên  sản lượng LT-TP của vùng xu thế trong tương lai sẽ giảm và không đủ đáp ứng cho nhu cầu con người ngày càng tăng lên. Chính vì vậy nếu không ta cứ tiếp tục duy trì phát triển nông nghiệp ở ĐBSH thì không bao giờ đáp ứng đủ LT-TP cho con người.

- Trên những cơ sở khoa học nêu trên dẫn đến ĐBSH cần phải thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo xu thế giảm dần
phát triển nông nghiệp, tăng dần phát triển công nghiệp và các ngành dịch vụ. Vì phát triển công nghiệp trong vùng có nhiều lợi thế
như:
              + Tài nguyên khoáng sản trong vùng khá phong phú điển hình có than nâu, dầu khí, VLXD có nguồn nguyên liệu thuỷ hải
sản phong phú.
               + Trong vùng có nguồn lao động dồi dào trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề.
               + Trong vùng có CSVCHT vững mạnh cho sự nghiệp công nghiệp hóa đặc biệt có mạng lưới công nghiệp hoá điển hình có
hệ thống GTVT-TTLL, có nhà máy hiện đại, nhiều nhà máy truyền thống.
               + Trong vùng rất năng động nên có khả năng thu hút nhiều nguồn vốn, nhiều dự án đầu tư quốc tế.
Trên cơ sở những lợi thế đó dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiêp là chính sang công nghiệp và dịch vụ ở
ĐBSH là hợp lý.

- Thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở ĐBSH theo xu hướng công nghiệp hóa.
                + Vì ĐBSH là địa bàn của nhiều tỉnh, nhiều thành phố có các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội - nhân văn và những thế
mạnh khác nhau cho nên việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo xu thế công nghiệp hóa không phải bằng cách cùng một lúc các tỉnh
trong vùng đều thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp cho nên tỉnh nào có điều kiện thuận lợi trước thì
chuyển đổi trước và chuyển đổi dần2 sang xu thế công nghiệp hóa còn các tỉnh khác chưa có điều kiện thuận lợi thì chuyển đổi từ từ
để vẫn đảm bảo lương thực cho con người.

               + Trong khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang công nghiệp thì phải ưu tiến phát triển các ngành dịch vụ như GT-TTLL, VHGD,
gia công, xuất khẩu... vì vùng này đông dân lao động dồi dào, bản chất cần cù, năng động rất khéo tay nên ngoài các ngành để
phát triển mạnh như giao thông, du lịch thì đẩy mạnh phát triển gia công xuất khẩu là hợp lý, đồng thời cũng là đảm nhận một công
đoạn trong dây truyền công nghệ của TG hiện nay.
 

Câu trả lời:

* Tài nguyên thiên nhiên nước ta đa dạng:
Tài nguyên thiên nhiên nước ta rất đa dạng và sự đa dạng ấy thể hiện ở sự đa dạng của mỗi loại tài nguyên. Sự đa dạng này
thể hiện cụ thể như sau:
- Tài nguyên khí hậu nước ta rất đa dạng vì nền khí hậu chung của cả nước là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với nhiệt độ
trung bình năm từ 22 - 270C nhưng lại rất phân hoá sâu sắc theo mùa, theo hướng Bắc Nam và theo độ cao. Trong đó riêng miền
Bắc lại có mùa đông lạnh từ T11 - T4. Còn miền Nam nóng, nắng quanh năm và trên độ cao hơn 1000m thì có khí hậu cận nhiệt
đới và ôn đới mát lạnh quanh năm. Đặc điểm khí hậu đa dạng này cho phép nước ta phát triển được một hệ thống cây trồng vật nuôi
cũng rất đa dạng với nhiều vụ quanh năm.
- Tài nguyên đất cũng rất đa dạng về loại hình với 64 loại đất khác nhau và 13 nhóm đất chính trong đó có 2 nhóm đất quan
trọng nhất là: nhóm đất phù sa và nhóm đất feralit. Trong đó mỗi nhóm đất lại gồm rất nhiều loại đất khác nhau mà điển hình là đối
với nhóm đất phù sa là đất phù sa ngọt, phù sa ngập phèn…Trong đó đất feralit cũng gồm nhiều loại như: feralit đỏ vàng, đất đỏ
bazan…Mỗi loại đất đó đều có tính chất, đặc điểm và giá trị khác nhau vì vậy mà nước ta có thể sản xuất được một hệ thống cây
trồng rất đa dạng với nhiều cây dài ngày và nhiều cây ngắn ngày.

- Tài nguyên nước sông ngòi cũng rất phong phú nhưng lại diễn biến theo mùa và phân hoá rất rõ từ Bắc vào Nam: Trong
khi sông ngòi miền Bắc và Nam Bộ có mùa lũ từ T6 - T9 và mùa cạn từ T11 - T4 thì sông ngòi miền Trung lại có mùa lũ từ T9
- T11 + T12 và mùa cạn từ T1 - T5.
- Tài nguyên sinh vật của nước ta rất phong phú, rất đa dạng và rất giàu về nguồn gen với trên 14000 loài thực vật, trên
11000 loài động vật trong đó có nhiều loài rất quý và có giá trị thương mại cao điển hình là nhiều loại gỗ quý: đinh, lim, sến, táu…
Về thực vật có nhiều loại hải sản quý: cá thu, cá chim, tôm hùm… và đặc biệt là tài nguyên rừng nhiệt đới ẩm có sinh khối lớn tốc
độ tăng trưởng nhanh và lại phân hoá rất rõ theo chiều cao. Các nguồn tài nguyên sinh vật đang là cơ sở to lớn để tạo ra nhiều nguồn
nguyên liệu để phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến và có giá trị to lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tài nguyên khoáng sản nước ta cũng rất đa dạng về loại hình với 80 loại khoáng sản khác nhau, với hơn 3000 mỏ lớn, nhỏ
trong đó đặc biệt có một số loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn như dầu mỏ, khí đốt, than đá và đặc biệt một số loại vật liệu xây
dựng: đá vôi, cát thuỷ tinh thì rất phong phú. Các nguồn tài nguyên khoáng sản này đang là cơ sở để tạo ra nhiều nguyên liệu
khoáng chất phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Sự chứng minh trên chứng tỏ tài nguyên môi trường nước ta không những rất đa dạng mà còn là một tổng thể tự nhiên nhiều
hình, nhiều vẻ với nhiều giá trị kinh tế, môi trường khác nhau.
* Tài nguyên môi trường đang suy thoái nhanh:
- Suy thoái về các nguồn tài nguyên môi trường nước ta là do những nguyên nhân chính sau:
+ Do con người nhiều năm qua đã khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên rất bừa bãi bởi du canh du cư, đốt nương, làm
rẫy, phá rừng…
+ Do Nhà nước ta khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên không tuân theo quy hoạch và quy trình công nghệ quốc gia
trong đó đã khai thác vượt quá khả năng phục hồi của các nguồn tài nguyên sinh vật.
+ Do nhân dân ta tiến hành cải tạo đồng ruộng như làm thuỷ lợi, khai hoang và bón nhiều phân hoá học, phun thuốc trừ sâu
dẫn đến tài nguyên đất nước kiệt quệ mà còn ô nhiễm nặng.
+ Do quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã thải vào môi trường nước, không khí và đất nhiều chất độc công nghiệp gây
ô nhiễm môi trường.
Như vậy sự suy thoái về tài nguyên môi trường nước ta là do ảnh hưởng tổng hợp của các nguyên nhân nêu trên.
- Suy thoái về tài nguyên rừng:
+ Suy thoái về S rừng: 1943 cả nước có 14 tr ha rừng thì 1975 chỉ còn 5 tr ha rừng và đến 1990 nhờ trồng thêm rừng mới cả
nước mới có khoảng 9 tr ha rừng. Như vậy trong 50 năm khai thác rừng nước ta đã mất đi 5 tr ha rừng. Cho nên độ che phủ rừng
trung bình của nước ta hiện nay chỉ còn 27,7%. Trong đó nguyên khu vực Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình) chỉ còn từ 8
®10%.
+ Suy thoái về chất lượng rừng: Nếu 1943 trong 14 tr ha rừng có 10 tr ha là rừng giàu (sinh khối trung bình từ 10 ®
150m3/ha) thì đến 1990 S rừng giàu này chỉ còn lại 613 ngàn ha. Đồng thời S rừng giàu đó còn lại chủ yếu ở trên núi cao, gần biên
giới rất khó khai thác hoặc không thể khai thác được. S rừng còn lại hầu hết là rừng nghèo, rừng thứ sinh và rừng mới trồng ít có giá
trị kinh tế.
+ Suy thoái về tài nguyên đất: như chúng ta đã biết tổng S đất của nước ta là 33,1 tr ha trong đó chỉ có khoảng 20% là đất tốt
mà chủ yếu là 3 tr ha đất phù sa ngọt, 3,3 tr ha đất đỏ bazan…còn lại hơn 6 tr ha đất N2 là đất xấu cần cải tạo: 3 tr ha đất ngập mặn,
phèn; 2,8 tr ha đất bạc màu; 72 ngàn ha đất lầy, thụt; 35 ngàn ha đất khô hạn và 500 ngàn ha đất cát trắng…Những loạI đất xấu này
không những khó cải tạo mà lại có xu thế mở rộng dần về S do quá trình khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên nước ta ngày càng
bừa bãi mà biểu hiện ở cả nước hiện nay có khoảng 10 tr ha đất trống đồi trọc.
+ Suy thoái về tài nguyên sinh vật trên cạn: hiện nay theo thống kê của các nhà sinh vật cho biết ở nước ta đang có 500 loài
thực vật, 85 loài thú, 63 loài chim, 54 loài động vật có xương sống đang mất dần trong đó có 100 loàI thực vật, 83 loài thú, 60 loài
chim, 40 loài động vật xương sống đang có nguy cơ tuyệt chủng.
+ Suy thoái về sinh vật dưới nước: hiện nay ở nước ta đang có 37 loài cá nước ngọt, 38 loài cá nước mặn đang cạn kiệt
nhanh đặc biệt nhiều loại hải sản có kích cỡ lớn, có giá trị thương mại cao như cá thu, chim, ngừ, gúng thì đã và đang tuyệt chủng.
Qua chứng minh trên ta khẳng định tài nguyên môi trường nước ta đã và đang suy thoái nhanh trong đó có nhiều loài đang
có nguy cơ tuyệt chủng.
* Những biện pháp cải tạo:
- Bảo vệ tài nguyên rừng:
+ Trước hết cần phải đẩy mạnh trồng rừng và sau năm 2000 cả nước ta phấn đấu trồng được 5 tr ha rừng. Trong việc trồng
rừng phải mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút các nguồn vốn quốc tế mà điển hình là vốn trồng rừng từ PAM. Còn trong nước thì
phải đẩy mạnh chương trình 327 (chương trình phủ xanh, đất trống, đồi trọc).
+ Phải kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, tu bổ rừng, bảo vệ rừng cùng với thực hiện triệt để chính sách giao đất, giao rừng
đến từng hộ nông dân và tạo cho đất có chủ.
+ Phải khai thác rừng hợp lý tuân theo quy trình công nghệ quốc gia đặc biệt phải có ý thức bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng
kinh doanh và tuyệt đối không được khai thác quá mức vượt quá khả năng phục hồi của rừng.
- Bảo vệ tài nguyên đất:
+ Đối với đất đồng bằng cần phải đầu tư thâm canh cao, sử dụng đất thật tiết kiệm, khi muốn chuyển đất N2 sang đât chuyên
dùng thì dứt khoát phải tuân theo quy hoạch của Nhà nước.
+ ở đồng bằng trong việc sử dụng đất cần phải hạn chế tối đa việc thải vào môi trường đất và nước những chất độc CN gây ô
nhiễm môi trường.
+ Đối với đất trung du miền núi phải kết hợp tổng hợp các biện pháp sử dụng đất hợp lý như trồng cây theo băng, đào hồ
vẩy cá. ở miền núi trung du trong khai thác sử dụng đất phải kết hợp chặt chẽ giữa N2 và với lâm nghiệp. Nông lâm kết hợp là để
giữ cân bằng hệ sinh thái, chống hạ thấp mực nước ngầm và hạn chế lũ lụt ở các vùng đồng bằng và điều tiết môi trường.
- Bảo vệ sự giàu có của nguồn gen :
+ Trước hết phải giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên môi trường cho toàn dân.
+ Khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật không được vượt quá khả năng khục hồi của nguồn gen.
+ Đối với khai thác tài nguyên hải sản thì ưu tiên đánh bắt hải sản những vùng xa bờ. Nghiêm cấm mọi hình thức đánh bắt
thô bạo (mìn, điện) và đấu tranh kiên quyết chống lại các tàu đánh bắt trộm cá nước ngoài xâm phạm vùng biển nước ta.
+ Đối với các nguồn tài nguyên sinh vật trên cạn thì nghiêm cấm du canh du cư, đốt nương, làm rẫy, phá rừng, săn bắn động
vật bừa bãi. Phải thực hiện triệt để chính sách giao đất giao rừng tạo cho đất và rừng có chủ.
+ Phải bảo vệ và có ý thức xây dựng thành những cảnh quan nhân sinh có lợi cho việc làm nâng cao đời sống tinh thần cho
người lao động.