Đọc hiểu văn bản: Ông đồ (Vũ Đình Liên)

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Khái quát chung

1. Tác giả

  • Vũ Đình Liên (1913 - 1996), quê ở Hải Dương.
  • Là nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới, nhà giáo nhân dân Việt Nam.
  • Thơ ông mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

Từ đầu thế kỉ XX, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vi. Hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, chua xót khi cảnh vật vẫn vậy nhưng người xưa không còn.

b. Thể thơ: Năm chữ

c. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

d. Bố cục: 3 phần

  • Phần 1: Hai khổ thơ đầu
  • Phần 2: Hai khổ thơ tiếp
  • Phần 3: Khổ thơ còn lại
@1988961@

II. Khám phá văn bản

1. Ông đồ thời Nho học thịnh hành

  • Khung cảnh
    • Hoa đào nở
    • Phố đông
  • Hành động
    • Bày mực tàu, giấy đỏ => Đồ dùng chủ yếu của các nhà Nho.
    • Thảo những nét

=> Trong không gian tấp nập, nhộn nhịp, đông vui của phố phường những ngày đầu xuân, ông đồ già xuất hiện cùng những đồ dùng quen thuộc. Hình ảnh ông đồ xuất hiện như một điều hiển nhiên, lặp đi lặp lại tuần hoàn, khi hoa đào nở là thấy ông đồ già.

  • Thái độ của mọi người
    • Bao người thuê viết
    • Tấm tắc khen tài

=> Câu thơ gọi ra khung cảnh những người đi chơi xuân đang dừng chân thưởng thức và xin những nét chữ tài hoa của ông đồ về treo trong nhà. Điều này là một nét văn hóa của người xưa vào dịp đầu xuân năm mới. Khi Nho học còn thịnh thế, người ta rất trọng chữ Nho. Các nhà Nho được coi trọng, ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn.

@1989121@ @1989038@

=> Hai khổ thơ đầu sử dụng các hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ cùng nhịp thơ nhanh gợi ra không khí mùa xuân náo nhiệt, nhộn nhịp đông vui. Trong không gian ấy, nổi bật lên là hình ảnh ông đồ. Ông đồ như một người nghệ sĩ đang cống hiến tài năng của mình cho cuộc đời.

2. Ông đồ thời Nho học lụi tàn

  • Từ "nhưng" tạo một bước ngoặt trong cảm xúc, báo hiệu một điều không mong muốn sắp xảy ra.
  • Khung cảnh:
    • Mỗi năm mỗi vắng => Miêu tả không gian, cho thấy sự tàn lụi của Nho học ngày càng rõ nét.
    • Người thuê viết nay đâu? => Câu hỏi tu từ để hỏi thời thế cũng chính là tự vấn bản thân.
    • Giấy đỏ, mực, nghiên buồn bã => Những hình ảnh gợi sự cô đơn, buồn tủi của đồ vật hay cũng chính là của con người.
    • Lá vàng rơi, mưa bụi bay => Những hình ảnh tả cảnh ngụ tình, gợi lên nỗi lòng của ông đồ. Lá vàng rơi gọi sự cô đơn, tàn tạ, chia li; mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo, buồn bã. Miêu tả khung cảnh cũng chính là miêu tả tâm trạng cô đơn, buồn tủi của số phận.
  • Hành động: ông đồ vẫn ngồi đấy.

=> Sự đối lập khung cảnh với hai khổ thơ đầu: mở đầu là khung cảnh tấp nập, nhộn nhịp nhưng giờ đây chỉ có ông đồ vẫn vậy, thời thế đã đổi thay. Vẫn là ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy, nhưng giờ đâu không ai thuê viết, không ai ngưỡng mộ tài năng, học vấn của họ nữa. Trong khung cảnh ngày xuân, hình ảnh ông đồ hiện lên đìu hiu, buồn bã, lẻ loi giữa phố đông.

@1989179@

3. Tình cảm của tác giả

  • Thời gian: đào lại nở => mùa xuân. Từ lại gợi ra sự tuần hoàn của thiên nhiên, đất trời.
  • Không thấy ông đồ đâu: Hình ảnh ông đồ vốn là một hình ảnh quen thuộc, xuất hiện vào lúc hoa đào nở. Ông từng là niềm ngưỡng mộ, được mọi người coi trọng tài năng, học vấn. Giờ đây, hoa đào lại nở nhưng không thấy ông đồ già cũng không thấy những người từng rất yêu thích, trân trọng chữ Nho đâu.
  • Câu hỏi tu từ đặt ra ở cuối bài như một lời than thân, một nỗi niềm tiếc thương cho số phận của ông đồ già, cho sự suy vi, tàn lụi của Nho học đương thời.

III. Tổng kết

1. Nội dung - Bài học

  • Nội dung: Bài thơ khắc họa hình ảnh ông đồ già thời Nho học thịnh hành và lúc Nho học suy tàn, qua đó bộc lộ niềm tiếc thương chân thành trước một lớp người đầy tài năng nhưng do thời thế nên không còn được coi trọng.
  • Bài học: Hãy trân trọng, giữ gìn những giá trị văn hóa cổ truyền tốt đẹp.

2. Nghệ thuật

  • Thể thơ năm chữ.
  • Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu sức biểu cảm.
  • Sử dụng nhiều biện pháp tu từ làm cho bài thơ sinh động, tăng sức gợi cảm.