Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đã một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé!
Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng.
Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ:
- Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.
Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:
- Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!
Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mới sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài.
Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh 18 chóng đi giết giặc, cứu nước.
Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.
Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.
Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.
Ta là Thánh Gióng, con thứ hai của Ngọc Hoàng thượng đế, hôm nay ta sẽ kể cho các cháu nghe câu chuyện ngày xưa ta đã đánh đuổi giặc Ân như thế nào.Nghe tin giặc Ân sắp sang xâm lược, vua cha cử ta xuống giúp dân đánh đuổi. Muốn biết dân chúng dưới trần đánh giặc ra sao, người khuyên ta nên đầu thai xuống trước vài năm. Ta nghe lời, bèn chọn một gia đình nghèo khó, lại hiếm muộn đường con cái, đó là một lão nông nghèo khó ở làng Phù Đổng. Hai vợ chồng giả cả mà lại không có con cái làm vui, biết hôm ấy bà già ra thăm đồng, ta bèn hóa phép làm một vết chân kỳ dị. Quả nhiên bà lão thấy lạ bèn ướm thử chân vào, thế là ta nhân đó hóa luôn thành bào thai trong bụng bà cụ.Hai ông bà mừng lắm, đủ ngày đủ tháng thì ta ra đời. Để nghe ngóng lòng người, ta quyết không nói không rằng suốt ba năm, mặc cho bố mẹ tha hồ dỗ dành. Nước mắt bà cụ chảy tràn như suối, ta biết bà buồn lắm nhưng đã định từ trước như vậy nên suốt ngày nằm im, quay mặt vào vách.Giặc kéo đến, chúng đi hàng đàn hàng lũ, thế rất mạnh, quan quân triều đình đánh không nổi. Khắp nơi náo loạn, vua bèn cho sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài để giúp nước. Tiếng xứ giả vang khắp nơi, thời khắc quyết định đã đến. Ta vươn vai đứng dậy rồi nói với mẹ.Mẹ ra bảo sứ giả vào đây cho con nói chuyện.Mẹ ta lúc đang chuẩn bị quang gánh thep dân làng đi chạy giặc, nghe ta nói thế thì vô cùng sửng sốt và mừng rỡ, vội ra gọi sứ giả vào.Sứ giả vào, thấy ta chỉ là một cậu bé con, có ý coi thường và thất vọng.Thằng bé này thì đánh sao nổi giặc ?Thấy ông ta nói vậy, ta quyết định dọa ông ta để chơi. Với một tay lấy chiếc cối đá, ta chỉ hất khẽ một cái « huỵch », chiếc cối đã rơi sát bên chân ông ta. Sứ giả biết ta không phải là người thường, vội quỳ xuống nói.Xin thần tiên thứ tội. Người cần binh khí gì và thêm bao nhiêu quân đánh giặc ạ ?Ta cho sứ giả đứng dậy rồi bảo.Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, hẹn ngày mai phải xong.Sứ giả vội lĩnh ý ra về. Ta quay sang nói với mẹ.Mẹ chuẩn bị thật nhiều cơm cho con ăn, để con còn lấy sức đi đánh giặc.Mẹ ta nấu một nồi cơm đầy, ta chỉ ăn đánh vèo một cái đã hết mà vẫn chưa thấp tháp gì. Mẹ bối rối vì trong nhà hết sạch gạo, may sao bà con hàng xóm biết chuyện, các nhà đều về nấu cơm mang sang. Bảy nong cơm, ba nong cà, ta cũng chỉ ăn loáng cái đã hết. Ăn xong, ta vươn mình đứng dậy, bước ra sân thì người đã quá mái nhà. Mọi người ai lấy làm mừng rỡ, vội về chuẩn bị dao, gậy để đi đánh giặc.Hôm sau sứ giả mang đến một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt và một chiếc roi sắt nhỏ. Nón thì ta đội không vừa, roi sắt thì vừa đập xuống đã gãy, ngựa sắt tung bờm hí vang nhưng với ta lúc này, trông nó không khác một con mèo nhỏ. Ta bảo sứ giả. Ngươi về rèn ngay một con ngựa to gấp mười lần con này, một chiếc nón thật to và một chiếc roi thật lớn.Sứ giả vâng lệnh, nhà vua biết tin bèn tập hợp tất cả sắt thép mọi nơi, tất cả thợ giỏi đều được vời về cungđể kịp rèn cho ta một con ngựa sắt to đúng bằng một con voi, một chiếc nón to đúng bằng một tán cây đa và một cây gậy to đúng bằng cột đình.Mọi thứ đã có đủ. Ta đội nón sắt, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt vươn cổ hí lên một tiếng, lửa phun rừng rực đốt cháy trụi cả một đám tre đầu ngõ.Lạy mẹ con đi !Ta nói rồi ra roi, lên ngựa. Ngựa tung bờm phi nước kiệu đưa ta thẳng đến chỗ quân giặc, khắp nơi nhân dân nô nức cầm dao, gậy theo sau. Ngựa phi đến đâu, tre hai bên đường vàng sém đến đấy ( sau này được gọi là tre đằng ngà). Vết chân ngựa in xuống đất thành một dãy ao hồ ( bây giờ vẫn còn ở làng Phù Đổng).Trông thấy ta từ xa, quân giặc vội quay đầu, vứt giáo tháo chạy. Nhưng chúng chạy đâu cho thoát ? Ngựa ta phun lửa đốt chúng cháy trụi từng mảng roi sắt ta vung ra một lần thì có cả chục thằng bị hất tung lên trời. Những thằng sống sót đều bị dân chúng đi theo tiêu diệt cả.Bỗng « rắc » một cái, chiếc roi sắt gẫy làm đôi. Quân giặc thấy thế mừng rỡ định hè nhau xông lại. Sẵn các bụi tre bên đường, ta vươn mình nhổ bật lên quật túi bụi xuống đầu giặc. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tan tác không còn một mống.Giặc tan, vua cho sứ giả ra tận nơi, phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương, mời về kinh thành để ban thưởng. Nhưng từ trên mây cao Ngọc Hoàng đã cất tiếng gọi ta rồi.Gửi dân lời chào bố mẹ, ta một mình một ngựa lên núi. Lên đến đỉnh, ta cởi áo giáp vắt trên ngọn cây cao,ngựa sắt cất cánh từ từ bay vào không gian.Thế đấy các cháu ạ. Nhiều người hỏi ta sao không ở lại mà lãnh thưởng, ta đã bảo họ rằng : ta tuy có tiêu diệt được nhiều quân giặc thật, nhưng chiến công này trước hết thuộc về cha mẹ nuôi ta, về dân làng Phù Đổng đã góp gạo, góp cà nuôi ta không lớn, về nhân dân khắp nơi đã không quản hiểm nguy, theo ta đi đánh đuổi quân thù.
Chào các cháu! Ta chính là Thánh Gióng con trai thứ hai của Ngọc Hoàng thượng đế đây, ngày hôm nay ta sẽ kể cho các cháu nghe về chuyện xưa thật là xưa của ta khi ta đánh đuổi giậc Ân ra khỏi bờ cõi đất nước mình
Các con à! Khi Ngọc Hoàng nghe tin giậc Ân sắp sang xâm lược nước ta, vua cha đã cử ta xuống để giúp dân chúng đánh đuổi quân giặc. Người đã bảo ta đầu thai xuống trần gian vài năm để biết được tình hình dân chúng dưới hạ giới đánh giặc ra sao. Nên ta đã chọn một gia đình nghèo khó nhưng hiền lành, chân chất, lương thiện, lại hiếm muộn con cái, đó chính là gia đình lão nông nghèo khó tại làng Phù Đổng. Hôm bà lão ra thăm đồng, ta đã hóa phép làm một vết chân to khổng lồ, kỳ dị. Bà lão đã ướm thử chân vào vết chân lạ đó, và ta đã hóa thành bào thai trong bụng bà cụ- mẹ ta đó.
Sau khi biết bà lão mang thai, hai ông bà mừng lắm, 9 tháng 10 ngày sau ta ra đời. Ta vì muốn nghe ngóng lòng người dân nên đã quyết định không nói năng gì suốt ba năm trời, mặc cho bố mẹ dỗ dành, ta cũng buồn khi nước mặt mẹ già chảy ròng, nhưng vì lòng đã định nên ta cứ quay mặt vào vách thôi.
Khi giặc kéo đến, chúng kéo thành hàng đàn hàng lũ, rất là mạnh và hung hãn, quân triều đình ta không thể nào đánh nổi. Vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp dân giúp nước. Lúc đó, ta nghe thấy được tiếng sứ giả vang khắp nơi, biết được thời khắc của mình đã đến. Ta vươn vai đứng dậy và nói với mẹ ta rằng: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện”. Lúc nghe ta nói mẹ ta vô cùng sửng sốt và mừng rỡ, liền chạy ra mời sứ giả vào. Nhưng khi thấy ta chỉ là cậu bé thì sứ giả tỏ thái độ coi thường xen lẫn thất vọng: “Thằng bé này thì làm sao đánh giặc”. Lúc đó, ta đã dọa ông ta, bằng cách với tay lấy chiếc cối đá và hất nhẹ khiến nó rơi sát chân ta. Sứ giả vội vã quỳ xuống và biết chắc rằng ta không phải người thường. “Xin thần tiên thứ tội. Người cần binh khí gì và thêm bao nhiêu quân đánh giặc ạ ?”. Ta bảo sứ giả hãy đứng dậy và nghe ta lời ta nói để về truyền lại cho nhà vua “Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, hẹn ngày mai phải xong”.
Khi sứ giả lĩnh ý ra về,ta quay sang nói mẹ ta hãy chuẩn bị thật nhiều cơm để ta có sức đi đánh giặc. Mẹ ta đi nấu một nồi cơm thật đầy, nhưng ta chỉ ăn đánh vèo một cái đã hết nhẵn nhưng vẫn chưa thấm tháp gì. Lúc đó, bà con hàng xóm biết chuyện nên dù nhà ta hết gạo nhưng mọi người vội góp gạo thổi cơm mang sang cho ta. Dù bảy nong gạo, ba nong cà nhưng ta vẫn chỉ ăn loáng là hết. Ăn xong ta vươn vai một cái, thì biến thành một người cao to, vạm vỡ. Ai cũng mừng rỡ, vội về nhà chuẩn bị dao gậy để cùng ta đi đánh giặc.
Ngày hôm sau, sứ giả mang đến ngựa săt, nón sắt, roi sắt nhỏ. Nhưng so với ta thì mọi thứ quá nhỏ. Ta bèn bảo sứ giả: “Ngươi về rèn ngay một con ngựa to gấp mười lần con này, một chiếc nón thật to và một chiếc roi thật lớn”. Nhà vua biết tin đã tập hợp tất cả sắt thép mọi nơi, các thợ giỏi để rèn một con ngựa sắt bằng con voi, một chiếc nón to bằng tán cây đa, và một cây gậy to bằng cột đình. Khi mọi thứ đã đủ, ta nhảy lên lưng ngựa, ngựa sắt hí vang khiến lửa phun đã đốt cháy trụi cả đám tre đầu ngõ đó. Trước khi đi, ta vội quay qua mẹ: “Lạy mẹ con đi!”.
Sau đó ta cùng ngựa phi nước kiệu đến thẳng chỗ giặc, khắp mọi nơi nhân dân cầm dao gậy nô nức theo sau. Ngựa và ta phi đến đâu thì hai bên đường tre bị đốt cháy vàng sém nên sau này người ta gọi đó là tre đằng ngà. Vết chân ngựa thì đi đến đâu in xuống đất thành một dãy áo hồ tới đó. Nhìn từ đằng xa, quân giặc đang quay đầu, vứt giáo tháo chạy khắp nơi. Nhưng làm sao chúng chạy thoát được. Ngựa của ta đi đến đâu phun lửa đốt chúng đến đó làm cháy trụi từng mảng, còn chiếc roi sắt ta thì ta chỉ vung ra một lần đã khiến cho cả chục thằng bị hất tung lên trời. Những thằng giặc còn sống sót thì đều đã bị dân chúng đi theo sau tiêu diệt cả.
Bổng chiếc roi của tay bị gãy làm đôi. Quân giặc thấy thế mừng rỡ, chúng định hè nhau xông lại. Ta bèn nhổ những bụi tre bên đường mà quật mà đánh vào đầu bọn chúng. Một lúc sau, cả đoàn giặc không còn lại một mống nào. Khi đánh tan tác được lũ giặc, vua cho sứ giả đến tận nơi để phong cho ta là làm Phù Đổng Thiên Vương, và mời ta đến kinh thành để ban thưởng, nhưng Ngọc Hoàng đã truyền gọi ta về. Ta chỉ kịp gửi lời chào đến bố mẹ ta rồi trèo lên ngựa tiến lên núi, vắt lại chiếc áo giáp ở ngọn cây cao, rồi cùng ngựa sắt bay về trời.
Nhiều người đã hỏi ta sao không ở lại để lĩnh thưởng, nhưng các cháu à, đối với ta dù đã giệt được quân giặc, nhưng ta thấy chiến công này thật sự phải thuộc về cha mẹ nuôi ta và người dân làng Phù Đổng đã một lòng góp gạo, góp cà nuôi ta lớn mạnh khỏe đó. Dân làng lại không sợ nguy hiểm, theo sát ta đánh đuổi quân thù. Cho nên, phần thưởng cần phải trao cho cha mẹ và dân làng Phù Đổng của ta phải không nào.