Ngày xưa vào đời vua Lê Thánh Tông, ở kinh thành Thăng Long có một tay đại bợm. Hắn đã định tâm lấy của ai là thế nào cũng có kết quả. Hắn từng làm cho bọn quan lại và bọn trọc phú mất ăn mất ngủ. Ðã nhiều lần các quan Phủ Doãn cho dò bắt nhưng hắn ẩn hiện như thần, không tài nào tóm được. Vì hành tích của hắn nhanh như gió, chỗ nào cũng vào lọt, nên người ta gọi là Quận Gió.
Một hôm vào dịp gần Tết, nhà vua ăn mặc giả làm một người học trò nghèo đi dạo phía ngoài kinh thành để xem xét dân sự. Tình cờ vua đến gõ cửa nhà Quận Gió. Vua làm bộ túng bấn nói:
– Tôi ngồi dạy học ở phường Ðồng Xuân, năm hết Tết đến được ít tiền về quê, chẳng may bị kẻ trộm lấy mất đi hết cả, nay xin cho trú chân một đêm, mai lại đi.
Quận Gió thấy khách nói thế, bèn đáp:
– Tôi sẽ vì ông mà giúp đỡ ít nhiều để làm tiền ăn đường.
Vua thấy nhà y cột xiêu vách nát, hỏi:
– Chả giấu gì ông, tôi vốn là Quận Gió đây, nghe nói ông gặp vận đen, tôi thương tình, vậy để đêm nay tôi cố thu xếp cho ông một món. – Nói rồi đưa rượu mời khách uống và nói thêm: – Tôi chỉ lấy của nhà giàu giúp người nghèo thôi, mà phải là của bất nghĩa tôi mới lấy, còn như những người làm ăn lương thiện, tôi không bao giờ động đến. Bây giờ ông thử xét xem có nhà nào giàu mà gian ác bất lương, cứ cho tôi biết, tôi sẽ vì ông giúp đỡ. Lấy của chúng nó không có tội vạ gì hết.
Vua nghĩ một lát rồi nói:
– Có nhà ông Bá Vân ở phía đông thành đây, hắn có cửa hàng buôn bán to, giàu có cự vạn.
Quận Gió đáp:
– Nhà ấy cho vay một lớp vốn, năm bảy lớp lãi, lấy được. Nhưng ta cứ nuôi cho béo rồi sẽ lấy sau.
Vua lại nói:
– Tôi có thấy nhà ông gì gần đây, ruộng sâu, trâu nái, nhà ngói tường dắc, coi chừng thế nào?
– Không được! Nhà ấy trần lực làm ăn; trời chưa sáng đã dậy ra đồng, mặt trời lặn mới về thổi cơm, cần cù như thế, không nên lấy. Thôi! Có anh quan coi kho kia, hay ăn bớt của công, hôm nay nhân thể tôi đi lấy cho.
– Thực thế à?
– Tôi đã tra cứu kỹ. Hắn lấy của công mỗi ngày một ít, đưa về quê tậu vườn tậu ruộng, có đến hàng trăm mẫu.
Vua tò mò muốn xem tài nghề của Quận Gió, bèn đòi đi theo. Quận Gió trước ngần ngại nhưng sau cũng bằng lòng, và bảo:
– Trước khi lấy, tôi sẽ cho ông thấy đủ tang chứng là của phi nghĩa, nhưng ông phải giữ cho thật im lặng mới được.
Ðoạn bảo thấy đồ giả nai nịt gon ghẽ, cả hai cùng ra đi trong đêm khuya. Ðến nhà viên quan coi kho, Quận Gió bảo vua đứng chờ ở bụi, rồi cắt giậu tìm cách mở cửa vào nhà. Sau đó, chàng dắt vua vào buồng, mở hòm lấy năm nén bạc đưa cho vua xem và nói:
– Ðây là bạc hắn mới trộm của kho về để riêng chưa dùng đến. Thôi ông cầm lấy về quê ngay đi mà ăn Tết, đừng có la cà đâu để chúng bắt được. Tôi sẽ tìm cách làm cho hắn không biết là đêm nay có trộm.
Vua nhìn thấy trên mỗi nén bạc có mấy chữ “ngự khố bạch kim”, tin lời Quận Gió là đúng và thầm khen hắn có tài. Vua đi luôn về cung, giấu bạc dưới chân thành. Sáng hôm sau là ngày nguyên đán, trăm quan vào chầu, chúc vua muôn tuổi. Vua cho gọi thủ kho đến hỏi:
– Nhà người đêm qua mất trộm phải không?
Thấy hắn không đáp, vua lập tức sai viên Trung sứ đến dưới chân thành lấy năm nén bạc về. Vua đưa cho hắn xem, hắn cứng lưỡi không trả lời được đành cúi đầu nhận tội.
Quận Gió sau đó được vua vời vào cung ban hiệu là “ăn trộm quân tử” và ban thưởng rất hậu.
#Walker
Cây tre trăm đốt là một câu chuyện cổ tích rất hay và được nhiều người yêu thích. Trong đó có em.
Hồi còn nhỏ, em thường được bà nội kể nhiều truyện dân gian. "Cây tre trăm đốt" là một trong những truyện mà em rất thích. Vì hồi đó còn quá bé nên em xin kể lại như sau: Ngày xưa, ở một làng nọ có một anh trai cày mô côi cha mẹ từ bé. Anh được một lão nhà phú hộ thuê. Vốn hiền lành, chất phác nên lão bảo gì anh làm nấy. Một hôm, lão gọi anh đến dỗ ngon, dỗ ngọt: "Con ở nhà ta đã lâu, lại thấy con ngoan ngoãn, hiền lành nên ta định gả con gái cho con. Với điều kiện trong ba năm, con phải làm ăn đến nơi đến chốn". Thấy lão nói thế, anh mừng lắm, cứ tưởng thật nên anh càng làm việc hăng say hơn.
Nhờ ba năm làm việc cực nhọc của anh, giờ đây lão đã tậu thêm được ruộng vườn, nhà cửa và nhiều thóc lúa. Trong ba năm đó, lão đã ngầm hứa gả con một lão buôn giàu có. Gần đến ngày lão nói với anh là gả con gái cho anh, lão bảo anh vào rừng tìm một cây tre trăm đốt làm của hồi môn. Anh liền vào rừng tìm cây tre trăm đốt. ở nhà, lão phú hộ nghĩ thầm: "Làm gì có tre trăm đốt mà tìm thể nào nó cũng bị rắn cắn, hổ vồ". Trong rừng anh đang cố gắng tìm được thứ lão phú hộ cần, nhưng nhiều lắm cũng chỉ có năm mươi đốt. Anh tìm đến hai ngày sau vẫn không thấy cây tre trăm đốt. Buồn quá, anh ngồi xuống cạnh một cái cây mà khóc. Thấy thế, Bụt hiện lên hỏi: "Tại sao con khóc". Anh trai cày kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Bụt, Bụt bảo: "Chuyện đó khó gì, con hãy tìm cho ta một tram đốt tre và hô "khắc nhập, khắc nhập" thì các đốt tre sẽ liền lại thành một cây, còn hô "khắc xuất, khắc xuất" thì cây lại rời ra". Anh định cảm ơn thì Bụt đã biến mất. Anh tìm đủ một trăm đốt tre rồi bó lại mang về. Đến nơi, anh thấy tiệc tùng linh đình trong nhà phú hộ. Anh tức lắm nhưng vẫn hô: Khắc nhập, khắc nhập, cây nhập liền lại vươn thẳng lên trời. Mọi người ngạc nhiên chạy ra xem. Lão phú hộ chen trong đám người bước ra với vẻ mặt ngạc nhiên. Anh liền đọc: "Khắc nhập, khắc nhập" thế là lão phú hộ dính chặt vào cây. Lão phú hộ van xin anh. Mãi sau anh mới khoan thai đọc: "Khắc xuất, khắc xuất" thế là lão phú hộ rời ra khỏi cây tre và phải gả con gái cho anh. Hai vợ chồng anh trai cày sống với nhau vui vẻ.