Đất nước Việt Nam thân yêu có muôn vàn cây lá khác nhau, hoa thơm qủa ngọt bốn mùa. Một màu xanh bát ngát bao trùm sông núi. Cảnh tr í thiên nhiên tuyệt vời “non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Lòng người hồn hậu, giàu tình yêu thương. Những khúc dân ca, những bài ca dao cùng với sữa mẹ, lời ru của bà đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta. Con trâu, con cò, con bống, hoa sen, hoa bưởi, hoa cà… cùng với lời ca tình nghĩa đem đến cho ta men say cuộc đời, làm vơi đi ít nhiều lam lũ, vất vả. Tiếng hát của ai đã từng làm xúc động, tự hào: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài - Chẳng thanh lịch cũng con người Thượng kinh”. Tiếng ca của ai đã từng làm ta bâng khuâng: “Hoa thơm thơm lạ thơm lùng Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm”. Và còn hoa sen trong đầm đã làm ta say mê từ thuở ấu thơ qua lời ru của mẹ. Năm tháng đã trôi qua, hồi tưởng lại, ta càng cảm thấy lòng mẹ ngạt ngào hương sen: “Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Cảnh đầm sen đẹp quá. Và lòng người cũng đẹp như sen. Sen là loại cây, loại hoa đẹp nhất trong đầm. Hoa súng, hoa lục bình, hoa muống màu tím biếc đã đẹp, nhưng không thể so sánh với sen. Bằng cách nói so sánh “gì đẹp bằng”, tác giả tự hào khẳng định: “trong đầm gì đẹp bằng sen”. Câu thứ hai giới thiệu cụ thể vẻ đẹp của đầm sen. Nhà thơ dân gian đang cùng chúng ta say mê ngắm đầm sen một ngày hè đẹp” “Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng” Trên mặt hồ trong vắt, lá sen xanh xoè ra như những chiếc lọng xinh xinh, những bông sen trắng, sen hồng nở xòe ra, nhị hoa màu vàng tươi, tỏa hương thơm ngào ngạt. Lá, hoa, nhị, xanh, trăng, vàng, bấy nhiêu nét vẽ chấm phá trong một câu câu thơ tám từ mà làm nổi bật vẻ đẹp của sen với màu sắc hài hòa. Sự thần diệu của lời ca là chẳng nói đến hương sen mà người đọc vẫn cảm thấy hương sen tỏa ngát, tâm hồn lâng lâng. Câu thứ ba đổi vần một cách kỳ lạ. hai hình ảnh “lá xanh” và “nhị vàng” được giao hoán cho nhau. Câu thứ ba hầu như khép lại câu thứ hai (giản lược) hai chữ “lại chen”. Nghệ thuật đổi vần ở đây chứng tỏ một bút pháp già dặn, điêu luyện của một nghệ sĩ cao tay, tạo nên một ấn tượng đặc biệt. Ta như cảm thấy có một bàn tay thon thả, xinh xinh của thiếu nữ đang lật đi lật lại từng lá sen xanh, nâng niu từng bông sen trắng, ngắm nghía trầm trồ nhị vàng của búp sen. “Nhị vàng, bông trắng, lá xanh” Vẻ đẹp của đầm sen, của hoa sen cũng là vẻ đẹp của làng quê, của thiên nhiên đất nước. Tác giả miêu tả vẻ đẹp rực rỡ cảu đầm sen với tình yêu cỏ hoa tạo vật, với tất cả niềm tự hào dân tộc, và tự hào về đất mẹ quê cha. Câu cuối bài ca dao mang một hàm nghĩa, một ẩn ý sâu sắc, đẹp đẽ. Lời thơ được cấu trúc bằng biện pháp tương phản “gần bùn”, “mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Bùn hôi tanh. Sen mọc từ sự hôi tanh của bùn nhưng sen rực rỡ, thơm ngát thế! Câu ca dao đã đưa ta đến một liên tưởng thú vị. Cuộc đời của nhân dân ta ngày xưa, dưới ách thống trị của vua quan, địa chủ, cường hào, sưu thuế nặng nề, trải qua nhiều khó nhọc, thiếu thốn. Cuộc đời vật lộn giữa bùn đen hôi tanh, nhưng tâm thế của nhân dân ta rất vững vàng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Có thể tác giả bài ca dao này là một nhà thơ nghèo, từ chiêm nghiệm cuộc đời mà nêu lên một triết lỹ nhân sinh cao đẹp của nhân dân ta, ca ngợi bản lĩnh dân tộc: Sống thanh cao, sống trong sạch. Ca dao dân ca có biết bao bài đặc sắc nói về hoa lá. Có bài nói về dáng trúc mang tiết tháo người hiền “trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Có bài nói về hoa nhài tinh khiết, trong trắng. Dân ca Quan họ có bài nói về trăm loài chim, trăm loài hoa… Qua đó ta thấy tâm hồn nhân dân ta rất đẹp, biết yêu mến quý trọng hoa thơm cỏ lạ mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Với lòng yêu hoa lá, chúng ta cảm thấy thú vị được thưởng thức cái hay, cái đẹp của bài ca dao “Trong đầm gì đẹp bằng sen…” này. Ta yêu thêm vẻ đẹp đồng quê, yêu thêm tâm hồn và tâm thế cao quý của con người Việt Nam: “Rủ nhau ra tắm hồ sen, Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình. Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”… Trong chúng ta, ai đã có lần được ngắm sen Hồ Tây, sen hồ Tĩnh Tâm (Huế), sen Đồng Tháp Mười…? Nghĩ về đầm sen, hương sen, chúng ta tự hào biết bao về người con vĩ đại của làng Sen thân thuộc như nhà thơ Bảo Định Giang đã ngợi ca: “Tháp Mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Có lẽ nếu có cuộc bình chọn loại hoa nào vừa dân dã, gần gũi với đời sống người dân nông thôn đồng bằng Việt Nam vừa toát lên vẻ cao quý, thanh khiết thì hoa sen ắt hẳn giành “vương miện”. Quả thật đồng bằng nước ta từ Bắc vào Nam đâu đâu cũng có hoa sen. Hoa sen được vẽ trang trí trên đồ gia dụng. Hoa sen cũng là mô típ tạo hình cho cả Thiền môn. Đức Phật từ bi toạ trên đoá sen. Chùa Một Cột tiêu biểu cho kiến trúc ViệtNam là hình ảnh cách điệu của đoá sen nổi trên hồ nước. Núi Dục Thuý, một vùng sơn thanh thuỷ tú lừng danh, cũng được thi hào Nguyễn Trãi ví với đoá sen. Những con người tài trí lỗi lạc cũng lấy sen để biểu lộ cho cốt cách tài năng của mình như trường hợp của Mạc Đĩnh Chi trong “Ngọc tỉnh liên phú”. Trong thời đại cách mạng, nhân dân Miền Namđã tự hào:
“Tháp Mười đẹp nhất hoa sen.
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Thật thú vị, từ thời xa xưa nhân dân Việt Nam đã từng ấp iu bài ca dao nổi tiếng về loài hoa này:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Bài ca dao này, chúng tôi đã được học từ thời “vỡ lòng” và thật bất ngờ nó có một sức sống dai dẳng trong lòng tưởng chừng nhập tâm đến mức không ý thức được sự cần thiết phải cắt nghĩa xem nó hay, nó đẹp ở chỗ nào!
Lời thơ lục bát ở đây tưởng bình lặng tuôn chảy qua bốn dòng thơ, nhiều hình ảnh được lặp lại tưởng chừng rất giản dị, dễ hiểu. Lời kết bài tưởng như cũng được lẩy ra một cách tự nhiên khẳng định cốt cách thanh cao của loài hoa quý nơi đồng nội để qua đó khẳng định phẩm chất thanh cao của người nông dân quanh năm lam lũ nơi “bùn lầy nước đọng”. Nhưng rồi đọc lại, ta vẫn thấy vỡ ra bao điều thú vị.
Hai câu đầu tác giả dân gian sử dụng lối dẫn dắt, giới thiệu rất tự nhiên, chân mộc - Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng- nhưng mang một giá trị tạo hình thật đặc biệt: Khóm sen nổi trội lên giữa đầm nước mùa hạ trong xanh dưới ánh nắng trời. Sắc lá xanh tươi như những chiếc ô xinh xắn nhô lên mặt nước, mát mắt, ưa nhìn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng, Cách miêu tả từ bao quát đến chi tiết bằng những màu sắc tươi tắn hài hoà như vậy quả chứa đựng tình yêu sen nhiều lắm! Tác giả dân gian đã truyền tình yêu ấy qua hàng trăm, hàng nghìn năm nay đến trái tim của hàng triệu người dân Việt. Và người ta có quyền háo hức muốn nghe “hướng dẫn viên” nói gì nữa về vẻ đẹp của sen:
'Nhị vàng, bông trắng, lá xanh'
Thì ra vẫn là các chi tiết cũ. Chính các chi tiết đã biết này khiến ta “mất cảnh giác”, dễ thiếu thận trọng đúng mức trong thưởng thức. Ngẫm ra chữ thứ sáu câu lục thứ ba này không hề hiệp vần với với chữ thứ tám câu bát bên trên. Như vậy bài thơ đã đổi vần đột ngột. Vần trong thơ khác nào hệ thống kinh mạch trong một cơ thể con người. Sự đổi thay đột ngột nào chẳng gây những chấn động . Nhà thơ Huy Cận đã so sánh việc đổi vần này “có khác nào như một dòng nước đang chảy xuôi, ta dựng lên một cái đập, hoặc buộc dòng nước đổi chiều, đổi vần để bắt chúng ta phải chú ý, chỗ dòng nước cuộn lên, buộc ta phải quan sát, phải chứng kiến một sự kiện gì đây…” ( Báo Văn nghệ số 327)
Thì ra chỗ nhà thơ dân gian buộc chúng ta phải lưu ý là tuy vẫn nêu lại các chi tiết cũ nhưng đã có sự hoán đổi vị trí của chúng. Câu trên miêu tả theo trình tự từ ngoài vào trong: lá xanh, rồi bông trắng và nhấn mạnh “lại chen nhị vàng”. Dùng nhị vàng trong chức vụ bổ ngữ cho ngữ động từ “lại chen” càng nêu bật tính chất nhỏ nhoi, mong manh của nó. Do sự đăng đối trong cấu tạo, lá xanh, bông trắng, nhị vàng được hiểu như là những ngữ danh từ. Xanh, trắng vàng đóng vai trò định ngữ. Đến câu sau nhị vàng được nêu lên đầu tiên, rồi đến bông trắng và cuối cùng là lá xanh. Cũng do cấu trúc đăng đối nên có thể hiểu vàng, trắng, xanh ở đây đóng vai trò vị ngữ (Nhị thì vàng, bông thì trắng; lá thì xanh) làm tăng tính khẳng định, xác nhận những đặc điểm của sen. Chúng ta hình dung như được tác giả dân gian đang tỉ mỉ “lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng” để củng cố niềm tin của ta vào nhận xét “trong đầm gì đẹp bằng sen” (Huy Cận - Tài liệu đã dẫn) đã được nêu một cách tường minh ở câu thơ mở bài. Ừ, thì hoa sen đẹp thật , đẹp nhất trong đầm rồi!
Nhưng tác giả dân gian đâu nỡ để ta dừng lâu ở cảm nhận hời hợt, bề mặt ấy. Câu cuối đến như một “giọt nước làm đầy cốc nước” nâng hẳn chất của câu ca dao lên. Người nghệ sĩ dân gian đâu chỉ phô diễn nghệ thuật tạo hình và đâu chỉ thuyết phục người ta về tài năng miêu tả mà còn là thuyết phục người ta về triết lí “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Thì ra từ vẻ đẹp của màu sắc, hương thơm của sen người nghệ sĩ bình dân xưa đã khéo léo đưa ra bài học về cách sống, về đạo lí làm người. Bài học đạo lí, lẽ sống ấy lại được rút ra một cách nhẹ nhàng từ thảo mộc quê hương. Nhẹ nhàng, hợp lí, thâm thuý và dễ tiếp nhận biết bao!
Bài ca dao có sự hài hoà máu thịt giữa hình thức nghệ thuật (vần thơ, cách miêu tả, cách sử dụng từ ngữ) với tình cảm, ý tưởng, xứng đáng là một hòn ngọc quý trong kho tàng thơ ca dân gian dân tộc. Lời thơ giản dị, ý tưởng sâu xa thuyết phục người nghe, cả tình cảm lẫn lí trí. Phải chăng bài ca dao này là điểm xuất phát để kiến tạo nên những vần thơ bác học có hình ảnh hoa sen cao khiết, thanh thoát đã nói trên? Nhân dân Nam Bộ tự hào: “Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười” phải chăng cũng xuất phát từ một cội nguồn tương tự.
Cuối cùng, sen cũng là một hình ảnh, hình tượng văn học thường được dùng tỏ bày tình cảm cho con người.Ở thời đại chúng ta, hoa sen được nhân dân Nam Bộ coi như một biểu tượng cao quí nhất dể tỏ lòng kính yêu đối với Bác Hồ:
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.