Hoàng Lê nhất thống chí- Ngô gia văn phái

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (Hà Nội)- một dòng họ lớn với truyền thống nghiên cứu, sáng tác văn chương ở nước ta.

* Ngô Thì Chí:  (1753-1788).

- Con của Ngô Thì Sỹ, em trai Ngô Thì Nhậm, từng làm tới chức Thiên Thư bình chướng tỉnh sự, thay anh là Ngô Thì Nhậm chăm sóc gia đình, không thích làm quan.

- Văn chương của ông trong sáng, giản dị, tự nhiên, mạch lạc.

- Viết 7 hồi đầu của Hoàng Lê nhất thống chí cuối năm 1786.

* Ngô Thì Du: (1772-1840).

- Cháu gọi Ngô Thì Sỹ là bác ruột.

- Học rất giỏi nhưng không dự khoa thi nào. Năm 1812 Gia Long xuống chiếu cầu hiền tài, ông được bổ làm Đốc học Hải Dương, ít lâu lui về quê làm ruộng, sáng tác văn chương.

- Là người viết tiếp 7 hồi cuối của Hoàng Lê nhất thống chí (trong đó có hồi thứ 14).

- 3 hồi cuối có thể do một người khác viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.

- Tác phẩm có tính chất ghi chép sự kiện lịch sử xã hội có thực, nhân vật thực, địa điểm thực.

- Là cuốn tiểu thuyết lịch sử- viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi.

2. Tác phẩm

- Hoàng Lê nhất thống chí viết về những sự kiện lịch sử, chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc. Các tác giả rất chú ý tôn trọng sự kiện lịch sử. Điều đó trở thành một quan điểm trong việc phản ánh hiện thực, cho nên mặc dù nhiều người viết, và viết ở nhiều thời điểm khác nhau, tác phẩm về cơ bản vẫn giữ được tính nhất quán.

- Tác phẩm là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX, trong đó hiện lên cuộc sống thối nát của bọn vua quan triều Lê- Trịnh.

- Chiêu Thống lo cho cái ngai vàng mục ruỗng của mình, cầu viện nhà Thanh kéo quân vào chiếm Thăng Long.

- Người anh dân tộc Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn rồi mất. Tây Sơn bị diệt, Vương triều Nguyễn bắt đầu (1802).

3. Bố cục

Hồi 14 có thể chia làm ba phần:

- Phần một (từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788)”): Được tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.

- Phần hai (tiếp theo đến “rồi kéo vào thành”): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.

- Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

@91404@@91405@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ

Vua Quang Trung Nguyễn Huệ

a. Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán

- Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết.

- Nghe tin giặc chiếm đánh đếm tận Thăng Long, ông không hề nao núng,"đích thân chinh cầm quân đi ngay".

- Trong một tháng: "tế cáo trời đất" lên ngôi hoàng đế, "đốc suất đại binh" Bắc, gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển quân lính và mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An.

- Định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

b. Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén

- Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch.

- Nêu bật chính nghĩa của ta- phi nghĩa của địch và dã tâm xâm lược của chúng - Truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta.

-Kêu gọi đồng tâm hiệp lực, ra kỉ luật nghiêm, thống nhất ý chí để lập công lớn. Lời dụ lính như một lời hịch ngắn gọn có sức thuyết phục cao (có tình, có lý).

- Kích thích lòng yêu nước, truyền thống quật cường của dân tộc, thu phục quân lính khiến cho họ một lòng đồng tâm hiệp lực, không dám ăn ở hai lòng.

- Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của từng chiến sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc.

c. Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng

- Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột "phương lược tiến đánh đã có tính sẵn".

- Tính sẵn kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một nước "lớn gấp mười nước mình" để có thể dẹp "việc binh đao", "cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng".

d. Tài dùng binh như thần

- Cuộc hành quân thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta kinh ngạc:

+ 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), một tuần lễ sau ra đến Tam Điệp. 

+ Đêm 30 đã "lập tức lên đường", tiến quân ra Thăng Long. Mà tất cả đều đi bộ.

+ Từ Tam Điệp trở ra, vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung  hoạch định là mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày.

- Hành quân xa liên tục nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, cũng do tài tổ chức của người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, tả, hậu, hữu. 

2. Hình ảnh bọn xâm lược và lũ tay sai bán nước

a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh

- Không đề phòng, không được tin cấp báo.

- Ngày mồng 4,quân giặc được tin quân Quang Trung đã vào đến Thăng Long:

+ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, nhắm hướng bắc mà chạy.

+ Quân sĩ hoảng hồn, giẫm đạp lên nhau qua cầu, xô nhau xuống sông, sông Nhị Hà bị tắc nghẽn.

b. Số phận thẩm hại của bọn vua tôi bán nước, hại dân

 - Vua Chiêu Thống cùng bọn thân tín đưa thái hậu ra ngoài, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền của dân để qua sông, luôn mấy ngày không ăn.

- Đuổi kịp Tôn Sỹ Nghị, vua tôi “nhìn nhau than thở,oán giận chảy nước mắt”, đến mức "Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ”.

@91407@@91408@@91409@

III.Tổng kết

1. Nghệ thuật

- Khắc họa một cách rõ nét hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ giàu chất sử thi.

- Kể sự kiện lịch sử rành mạch chân thực, khách quan, kết hợp với miêu tả sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo.

2. Nội dung

Với cảm quan lịch sử và lòng tự hào dân tộc, các tác giả đã tái hiện một cách chân thực, sinh động hình ảnh Nguyễn Huệ và hình ảnh thảm bại của quân xâm lược cùng vua quan bán nước