- chủ trương hòa hoãn của Lý Thường Kiệt là dzì vậy ạ?!
Chủ trương hòa hoãn của Lý Thường Kiệt là gì?
- Thể hiện sự nhân từ , độ lượng của nhân dân ta
- Đảm bảo đc sự độc lập vững bền của dân tộc
- Đàm bảo danh dự cho nc lớn ( nc Tống )
- Đảm bảo tình hữu nghị giữa 2 nc
Chủ trương đối phó của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống là gì? Câu nói nào của Lý thường Kiệt thể hiện điều đó? Chủ trương đối phó ấy của Lý Thường Kiệt có ý nghĩa như thế nào với cuộc kháng chiến của quân ta?
- Lý Thường Kiệt thực hiện chủ trương "tiến công trước để tự vệ" (tiên phát chế nhân).
- Ông thường nói: "Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc".
Lý do nào dưới đây là lý do quan trọng nhất để Đảng ta chủ trương khi thì tạm thời hòa hoãn với quân Tưởng, khi thì hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng?
A. Tưởng dùng tay sai Việt Quốc, Việt Cách để phá ta từ bên trong.
B. Thực dân Pháp được sự giúp đỡ, hậu thuẫn của quân Anh.
C. Chính quyền cách mạng còn non trẻ, không thể cùng lúc chống lại hai kẻ thù mạnh.
D. Tưởng có nhiều âm mưu chống phá cách mạng.
Đáp án C
Sau cách mạng tháng Tám, nước ta gặp muôn vàn khó khăn về kinh tế, tài chính,văn hóa xã hội, trong quân sự lực lượng quân sự còn non trẻ, trang bị còn thiếu. Ở miền Bắc nước ta có 20 vạn quân Tưởng, miền Nam có 1 vạn quân Anh cùng quân Pháp quay lại xâm lược, chúng ta không thể cùng một lúc chống lại nhiều kẻ thù mạnh.
chủ trương đánh giặc của lý thường kiệt ?
Chủ trương đánh giặc của Lý Thường Kiệt là ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc
Chủ trương đối phó của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống là:
A. Ngồi yên đợi giặc đến.
B. Đầu hàng giặc.
C. Chủ đông tiến công để phá thế mạnh của quân Tống.
D. Liên kết với Cham-pa.
Chọn đáp án:C
Giải thích: Lý Thường Kiệt chủ trương “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc”. Ông gấp rút chuẩn bị cuộc tấn công vào những nơi tập trung quân lương của nhà Tống, gần biên giới như: Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu.
Chủ trương đối phó của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống là:
A. Ngồi yên đợi giặc đến.
B. Đầu hàng giặc.
C. Chủ đông tiến công để phá thế mạnh của quân Tống.
D. Liên kết với Cham-pa.
Tại sao sau khi đánh thắng quân xâm lược Tống thì Lý Thường Kiệt lại chủ trương giảng hòa?
Lý Thường Kiệt chủ trương giảng hòa là vì:
– Muốn kết thúc nhanh chóng cuộc chiến tranh vì chiến tranh kéo dài sẽ gây nhều đau thương và mất mát cho nhân dân 2 nước.
– Thể hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc Đại Việt.
– Muốn xác lập lại mối quan hệ hòa hiếu giữa 2 nước Việt-Tống để nhân dân sống trong thái bình.
Lý Thường kiệt chủ động giảng hòa vì
- Giữ mối quan hệ giữa 2 nước
- Không làm mấy mặt nhà Tống
- Không muốn tăng thêm thù hận cho 2 nước
- Thể hiện tinh thần nhân đạo của Đại Việt
– Muốn kết thúc nhanh chóng cuộc chiến tranh vì chiến tranh kéo dài sẽ gây nhiều đau thương và mất mát cho nhân dân 2 nước.
– Thể hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc Đại Việt.
– Muốn xác lập lại mối quan hệ hòa hiếu giữa 2 nước Việt-Tống để nhân dân sống trong thái bình,vấn đề kinh tế cũng phát triển hơn.
Lý do cơ bản nhất để ta chủ trương hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc trước ngày 6-3-1946 là
A. ta chưa đủ sức đánh hai vạn quân Trung Hoa Dân quốc.
B. Trung Hoa Dân quốc có bọn tay sai Việt quốc, Việt cách hỗ trợ từ bên trong
C. tránh tình trạng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.
D. hạn chế việc Pháp và Trung Hoa Dân quốc cấu kết với nhau.
Lý do cơ bản nhất để ta chủ trương hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc trước ngày 6-3-1946 là
A. ta chưa đủ sức đánh hai vạn quân Trung Hoa Dân quốc.
B. Trung Hoa Dân quốc có bọn tay sai Việt quốc, Việt cách hỗ trợ từ bên trong
C. tránh tình trạng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.
D. hạn chế việc Pháp và Trung Hoa Dân quốc cấu kết với nhau.
Câu 13. Tại sao Lý Thường Kiệt là chủ động giảng hòa?
A. Để đảm bảo mối quan hệ hòa hiếu giữa hai nước là truyền thống nhân đạo của dân tộc.
B. Lý thường Kiệt sợ mất lòng vua Tống.
C. Để bảo toàn lực lượng của nhân dân.
D. Lý Thường Kiệt muốn kết thúc chiến tranh nhanh chóng.