Đề 1 :
Tham khảo :
Hôm nay, ta thành thật thú nhận tội lỗi của mình đã vô tình để xảy ra cho đất nước nhân dân Âu Lạc một quộc chiến tranh mà đáng lẽ không thể có.
Ta là An Dương Vương, vị vua đã xây nên thành Cổ Loa bền vững và đã được thần Kim Quy trao tặng cái lẫy thần nên giữ được bình yên cho muôn dân. Lúc đó, Triệu Đà sang xâm lược nhiều lần nhưng hắn phải thất bại trước cái nỏ thần linh thiêng kì diệu ấy: Chỉ cần một mũi tên bắn ra là có biết bao quân sĩ gục ngã. Tức giận, hắn chờ đợi thời cơ; còn ta tự đắc trước những chiến công nên không dè dặt nghĩ đến những âm mưu hiểm độc của Triệu Đà.
Một ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. Nhưng đối với ta, Trọng Thủy có vẻ hơi khác thường.
Một thời gian, Trọng Thủy xin phép về thăm cha rồi không bao lâu quay trở lại. Ta cho quân bày yến tiệc và rót rượu cho Trọng Thủy nhưng hắn từ chối. Ngược lại, hắn lại mời ta uống liên tiếp đến nỗi ta say mèm chỉ thoáng thấy bóng hắn vụt qua rồi ta không biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại, ta thấy Trọng Thủy đang ngồi bên cạnh ta cung kính nói:
– Thưa nhạc phụ, người đã khỏe chưa?
– Ta khỏe rồi. Sao con không đến với Mị Châu? Ta thì thào.
– Hiền thê đà có nô tì chăm sóc rồi! Hắn nhỏ nhẹ đáp.
Ta lại nói tiếp:
– Được rồi, con cứ đến thăm vợ con đi.
Hắn kính cẩn chào:
– Xin phép nhạc phụ, con đi.
Tất cả những nghi ngờ trong ta từ trước đến nay đã tan biến hết. Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy về phía đông. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói: "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".
Ta quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Nương, đứa con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật quốc gia cho tên gián điệp Trọng Thủy cho nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống biển.
Đây là câu chuyện sự thật của đời ta, của vua An Dương Vương đã không cảnh giác trước kẻ thù nên cơ nghiệp bị sụp đổ. Ta mong rằng những kẻ kế vị sau này xem đây là bài học xương máu mà giữ mình.
Đề 2 :
Tham khảo :
Chỉ vì tin lời người chồng của mình Mị Châu đã tạo nên một lỗi lầm quá lớn khiến Vua cha tức giận mà giết chết nàng. Sau khi theo dấu lông ngỗng vợ trải, Trọng Thủy tìm được đến bờ biển và phát hiện xác vợ. Chàng vô cùng đau khổ bèn mang nàng về thành Cổ Loa mà chôn cất. Nỗi đau đớn giằng xé trái tim người đàn ông ấy để mỗi đêm khi nhìn xuống giếng Trọng Thủy như nhìn thấy người vợ yêu quý của mình. Chàng liền lao đầu xuống giếng tự vẫn. Thế nhưng từ đây, nó đã mở ra cho chàng cơ hội được trùng phùng với người vợ yêu quý của mình.
Lang thang chốn thủy cung, rất lâu chàng không biết đây là đâu chỉ biết có rất nhiều san hô, rất nhiều hoa lá. Rồi bỗng dưng chàng bị hai tên lính áp giải đến trước một tảng đá. Chàng vô cùng bất ngờ vì nàng công chúa xinh đẹp đó lại là Mị Châu. Hóa ra chàng đứng trước Long Vương và Công chúa của ngài, Bởi xót thương Mị Châu xinh đẹp hiền lành mà Long Vương nhận nàng làm con gái nuôi. Nhìn thấy vẻ mặt đau khổ uất hận của Mị Châu, chàng chỉ biết bật khóc nức nở. Trọng Thủy quỳ xuống van xin Mị Châu tha thứ cho mình. Chàng khóc mà rằng:
- Mị Châu nàng ơi. Khó khăn lắm tớ mới tìm được nàng. Mong nàng hãy tha lỗi cho ta. Ta không thể làm cách khác được đó là lệnh của Vua cha. Ta biết nàng yêu ta không dấu diếm gì nhưng ta đã phản bội nàng phản bội niềm tin đó.
Mị Châu lắc đầu mà nói:
- Thiếp cũng mong được gặp chàng hàng ngày đều ngắm cảnh vật những kỉ vật mà nhớ chàng. Nhưng chính vì sự tin tưởng mù quáng chạy theo tình yêu của chàng mà thiếp đã mang tiếng phản bội đất nước dân tộc mình. Thiếp không thể chung sống với kẻ thù dân tộc của mình. Tại sao chàng lại lỡ phản bội lòng tin của thiếp lỡ lừa dối thiếp?
Trọng Thủy càng đau khổ uất nghẹn hơn khi nghe những lời giãi bày của vợ mình:
- Quả là ban đầu ta rắp tâm lừa dối cha con nàng nhưng sau một thời gian chung sống ta thực sự yêu nàng. Tình yêu của ta có thần linh chứng giám. Tình yêu của ta ai cũng biết. Ta vô cùng ân hận vì nghe lời vua cha nhưng ta mong nàng hãy hiểu cho ta. Phải lừa dối nàng lòng ta vô cùng rối bời, tâm trí hỗn loạn. Suốt thời gian qua ta đã phải chịu biết bao nhiêu sự dằn vặt, dày vò. Lúc ta nhận ra sai lầm thì đã quá muộn rồi. Ta đã chọn cái chết để tạ tội với nàng. Mị Châu nàng ơi! Ta cầu xin nàng hãy tha thứ cho niềm tin của ta.
Cảnh vật như xao động, dòng nước nhẹ nhàng hơn. Mị Châu sau nghe những lời nói đó nghẹn ngào:
- Thiếp tin chàng tin vào tình yêu và tình cảm của chàng dành cho thiếp là không giả dối. Cũng hiểu rằng đấng nam nhi là phải lấy giang sơn làm trọng cũng hiểu rằng lỗi không phải do chúng ta mà là do cuộc chiến tranh phi nghĩa mà thành.
Mị Châu ngưng lời hai vợ chồng ôm nhau mà khóc. Thế nhưng sau đó nàng lại nói:
- Tuy thiếp tin chàng và tin tình yêu của của chàng thế nhưng sông với nhau là chuyện không thể. Thiếp đã mang tội danh với đất nước với Vua cha nên không còn mặt mũi nào sống trên cõi đời này nữa cũng không thể nào sống bên người đã lừa dối đất nước của mình được. Thứ lỗi cho thiếp không thể cùng chàng răng long đầu bạc trọn đạo vợ chồng. Thiếp mong rằng, sau khi trở về chàng hãy trở thành một vị Vua tốt và hãy quan tâm đến cuộc sống của bách tính trăm họ.
Nghe vậy, Trọng Thủy biết mình đã không thể thuyết phục được Mị Châu nữa. Cũng hiểu nàng không còn mặt mũi nào cùng hắn trở về bởi hắn và nàng đều đã sai, hắn không muốn ích kỉ với nàng nữa. Nói đoạn Mị Châu xin Long Vương cho người đưa Trọng Thủy lên trần gian. Kể từ đó, Trọng Thủy quyết không lấy vợ mà chung tình với người vợ quá cố của mình cũng giữ lời hứa trở thành một vị Vua anh minh, lỗi lạc.
1)I. MỞ BÀI:
Giới thiệu về truyện theo ngôi kể thứ nhất bằng lời của An Dương Vương.
II. THÂN BÀI:
III. KẾT BÀI:
Cảm nghĩ của nhân vật tôi
Hôm nay, ta thành thật thú nhận tội lỗi của mình đã vô tình để xảy ra cho đất nước nhân dân Âu Lạc một quộc chiến tranh mà đáng lẽ không thể có.
Ta là An Dương Vương, vị vua đã xây nên thành Cổ Loa bền vững và đã được thần Kim Quy trao tặng cái lẫy thần nên giữ được bình yên cho muôn dân. Lúc đó, Triệu Đà sang xâm lược nhiều lần nhưng hắn phải thất bại trước cái nỏ thần linh thiêng kì diệu ấy: Chỉ cần một mũi tên bắn ra là có biết bao quân sĩ gục ngã. Tức giận, hắn chờ đợi thời cơ; còn ta tự đắc trước những chiến công nên không dè dặt nghĩ đến những âm mưu hiểm độc của Triệu Đà.
Một ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. Nhưng đối với ta, Trọng Thủy có vẻ hơi khác thường.
Một thời gian, Trọng Thủy xin phép về thăm cha rồi không bao lâu quay trở lại. Ta cho quân bày yến tiệc và rót rượu cho Trọng Thủy nhưng hắn từ chối. Ngược lại, hắn lại mời ta uống liên tiếp đến nỗi ta say mèm chỉ thoáng thấy bóng hắn vụt qua rồi ta không biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại, ta thấy Trọng Thủy đang ngồi bên cạnh ta cung kính nói:
– Thưa nhạc phụ, người đã khỏe chưa?
– Ta khỏe rồi. Sao con không đến với Mị Châu? Ta thì thào.
– Hiền thê đà có nô tì chăm sóc rồi! Hắn nhỏ nhẹ đáp.
Ta lại nói tiếp:
– Được rồi, con cứ đến thăm vợ con đi.
Hắn kính cẩn chào:
– Xin phép nhạc phụ, con đi.
Tất cả những nghi ngờ trong ta từ trước đến nay đã tan biến hết. Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy về phía đông. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói: "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".
Ta quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Nương, đứa con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật quốc gia cho tên gián điệp Trọng Thủy cho nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống biển.
Đây là câu chuyện sự thật của đời ta, của vua An Dương Vương đã không cảnh giác trước kẻ thù nên cơ nghiệp bị sụp đổ. Ta mong rằng những kẻ kế vị sau này xem đây là bài học xương máu mà giữ mình.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có "Tấm Cám", truyện ngụ ngôn có "Thầy bói xem voi" thì truyền thuyết có "Ta và Mị Châu - Trọng Thủy". Truyền thuyết là "nghệ thuật lựa chọn các sự kiện và nhân vật để xây dựng các hình tượng nghệ thuật, phản ánh tập trung nhất lịch sử của địa phương, quốc gia, dân tộc... Nếu lịch sử cố gắng phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật, thì truyền thuyết lại quan tâm hơn đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện và nhân vật đó." Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình: đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại. Truyền thuyết "Ta và Mị Châu, Trọng Thủy", trích truyện "Rùa Vàng" trong "Lĩnh Nam chích quái", đã nói lên chiến công của ta là vua Âu Lạc xây thành, chế nỏ, giữ nước thành công và bi kịch tình yêu của Mị Châu gắn liền bi kịch mất nước của ta.
Trong buổi đầu dựng nước, ta đã rất có công với dân tộc. Ta cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ta bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ta dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ta, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong. Có lẽ ta đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó. Ta còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho ta một cái vuốt. Ta đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn (nhân dân gọi là nỏ thần). Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng ta quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên hạ.
Nhưng cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn của ta. Khi Đà sang cầu hôn, ta đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.
"Một đôi kẻ Việt người Tàu
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương"
"Một đôi kẻ Việt người Tàu" lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng ta không hề màng tới điều đó. Có lẽ ta chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau. Nhưng ta không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta thì chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ta nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi trước mắt nhưng lại không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ta đã đưa cả cơ đồ "đắm biển sâu".
Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, ta dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ta "vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: 'Đà không sợ nỏ thần sao?'" ta đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ta mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam. Trong lúc cấp bách, ta chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ta còn không nhận ra được đâu là giặc, ta chỉ ngửa mặt kêu "trời" mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói: "Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!" thì ta đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ta là một vị minh quân. Ta đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí. Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ta. Khi ta không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ta lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bảo ta và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ta. Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân? Chi tiết "vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển" đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ta về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp?
Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của ta mang tính hiện thực sâu sắc. Và bi kịch nước mất nhà tan ấy xuất phát từ mối tình duyên của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là con An Dương Vương, là vợ Trọng Thủy và là con dâu của Triệu Đà. Nàng rất ngây thơ, yêu Trọng Thủy với một tình yêu trong sáng của con gái. Nàng đã trao cho Trọng Thủy tất cả trái tim mình. Mấu chốt chính là lúc nàng chỉ cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là việc đại sự, thế mà nàng lại "vô tư" đến mức đưa cho Trọng Thủy xem. Nàng u mê, ngu muội đến mức lầm lẫn giữa "tình nhi nữ" và "việc quân vương". Còn gì đau xót hơn chăng? Nếu xét về khía cạnh một người vợ thì Mị Châu là một mẫu hình lí tưởng cho chữ "tòng" thời ấy. Nhưng không chỉ là một người vợ, Mị Châu còn là công chúa của nước Âu Lạc. Khi đã tráo được nỏ thần, Trọng Thủy biện cớ về thăm cha. Trước khi đi, chàng nói với Mị Châu: "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy thế mà Mị Châu không nhận ra. Nàng yêu Trọng Thủy đến mức còn không thèm đặt ra câu hỏi tại sao hai nước phải thất hòa, tại sao Bắc Nam phải cách biệt trong khi ta đã là "người một nhà". Nàng chỉ hướng về hạnh phúc lứa đôi, mong đến ngày sum họp: "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau". Câu nói của Mị Châu là lời nói của một người vợ yêu chồng tha thiết. Nhưng nàng không biết rằng hành động của nàng đã cho Triệu Đà chiến thắng vua cha, cho Trọng Thủy đuổi theo giết cha mình.
"Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình"
Khi bị giặc truy đuổi, Mị Châu đã mặc chiếc áo lông ngỗng trên mình. Chiếc áo hóa trang lông ngỗng là trang phục của người phụ nữ Việt xưa trong những dịp lễ hội. Thế nhưng Mị Châu lại mặc nó vào lúc nguy cấp như thế này. Điều đó cho thấy nàng đã không còn lí trí sáng suốt nữa. Mọi hành động của nàng đều bị tình cảm vợ chồng chi phối. Trước khi bị vua cha chém đầu, nàng đã nói: "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù". Nàng đã nhận ra được chân tướng sự việc, rằng người nàng đã yêu, đã tin tưởng bấy lâu nay chỉ là kẻ lừa bịp. Cái chết của Mị Châu là sự hóa thân không trọn vẹn, xác biến thành ngọc thạch, máu biến thành châu ngọc. Điều đó cho thấy sự cảm thông của nhân dân ta với Mị Châu, một người đã "vô tình" đưa nước Việt vào một ngàn năm nô lệ.
Không như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như ta "nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà". Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong "Tâm sự" đã nói:
"Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào
Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu
Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình"