Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Thái Nguyên , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 3
Số lượng câu trả lời 19
Điểm GP 3
Điểm SP 20

Người theo dõi (0)

Đang theo dõi (3)


Câu trả lời:

Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí- Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.

Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tác như sau:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch thành:

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước - Nam Trân dịch)

Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.

Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe doạ bởi tư tưởng ngông cuồng kia.

Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!

Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.

Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí - Trần, khiến người đọc rưng rưng!

Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.

Qua bài "Phò giá về Kinh" của Trần Quang Khải em hiểu gì về văn thời Trần?

Trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên xâm lược đời Trần, Thượng tướng Trần Quang Khải đã lập được nhiều chiến công to lớn. Sau chiến thắng Hàm Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về kinh đô. Trên đường đi, ông đã hứng khởi sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư. Bài thư nguyên văn bằng chữ Hán, theo thể Đường luật ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay. Tuy tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn dầu tiên của dân tộc ta trong cồng cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa dược đọc, được nghe một tác phẩm văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn. Do đó, bài thơ Phò giá về kinh của vị thượng tướng - thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ Hán : Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu trí lực, Vạn cổ thử giang san. Và đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim : Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Bố cục tác phẩm gổm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầu: Chương Dương cướp giảo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Tìm hiểu lịch sử, biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên đời Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhung Trần Quang Khải chí nói tới hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao ? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có tính quyết định dể giành thắng lợi cuối cùng ? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa giá nhà vua và cá triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về kinh đô, vui lắm, phân khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm ? Trong thực tế, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương sau (tháng 6 năm 1285). Tại sao tạc giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử ? Đây cũng là câu hỏi thú vị. Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng, ở chiến thắng trước - Hàm Tử - người chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Trần Quang Khải chi tham gia hỗ trợ. Còn tại Chương Dương, Thượng tướng Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền niềm vui được "phò giá" dồn dập nối tiếp nhau lay động trí tuệ và tâm hồn. Có lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương và Hàm Tử, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dùng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú,... Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngấn gọn, mười âm tiết. Ở mỗi chiến thắng, cũng dúc lại bằng hai từ : "đoạt sáo" (cướp giáo), "cầm Hồ" (bắt quân Hồ). Cần chú ý câu thơ nguyên tác "đoạt sáo". "Đoạt" nghĩa gốc là "lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác". Như vậy, dùng từ "đoạt sáo", nhà thơ vừa ghi chiến công vừa ngợi ca hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ "cướp giáo" làm giảm phần nào vẻ đẹp của chiến thắng. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quân giặc. Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng. Mỗi chiến dịch một thành tích khác nhau, bổ sung cho nhau, thật hài hoà, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời thơ khống nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động "đoạt sáo", "cầm Hồ". Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non sông, đất nước cho ta. Câu thơ dồn nén, biểu ý rắn khoẻ. Nhưng nhịp thơ, âm điệu vẫn toát ra niềm vui, niềm tự hào phơi phới. Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi giữa đoàn quân chiến thắng vừa sang sảng cất tiếng ngâm thơ. Tiếng ngâm lan truyền và được ba quân nối tiếp, trở thành khúc ca hào hùng vang động núi sông. Đúng là khúc khải hoàn ca. Xuống hai câu dưới, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ suy nghĩ về tương lai đất nước : Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về ngày mai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng, của một người đã trở thành ý nghĩ, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao trách nhiệm, cố gắng "tu trí lực", tức là rèn luyện, tu dưỡng tài nâng, sức lực. Đồng thời ông động viên quân dân "gắng sức, đồng lòng" phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình bền vững dài lâu. Câu thơ kết "Vạn cổ thử giang san" vừa chỉ ra cái đích đi tới của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ biểu cảm. Lời răn dạy hài hoà với niềm tin, niềm hi vọng. Ba năm sau khi bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư ra đời, vào tháng 4 năm 1288, trong buổi tế thần tại Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông), đức vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng đọc hai câu thơ : Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng) Phải chăng hai câu thơ trên của nhà vua đã đồng vọng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Thượng tướng Trần Quang Khải ? Và phải chăng đấy cũng chính là hào khí của cả dân tộc ta thời đại nhà Trần, mà sau này người đời gọi là Hào khí Đông A ? Hào khí Đông A nghĩa là thế nào ? Đông A là chiết tự tên họ Trần, gồm hai chữ : chữ Đông ghép với chữ A trong Hán tự. Hào khí Đông A là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, là khí thế, quyết tâm lớn lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước thanh bình, bền vững. Hào khí Đông A không chỉ là tư tướng, tâm hồn của con người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm trong rất nhiều tác phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần, thế kỉ XII, XIII. Trở lại với bài thơ Phò giá vê kinh của Trần Quang Khải, ta thấy bài thơ thật ngắn gọn, hàm súc, biểu ý sâu sắc, biểu cảm dạt dào. Trong bài thơ có nhiều từ Hán Việt, nhưng khá quen thuộc với chúng ta ngày nay, như : "Chương Dương độ, Hàm Tử quan, thái bình, trí lực, vạn cổ, giang sơn". Do đó, đọc thơ, chịu khó tìm tòi, suy ngẫm, chúng ta hiểu được và rung cảm được với ý thơ, hồn thơ của tác giả - người sống cách chúng ta gần một ngàn năm. Nếu ta gọi bài thơ Sông núi nước Nam là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, thì cũng có thể coi Phò giá về kinh là khúc khải hoàn ca đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm và trong lịch sử văn học Việt Nam. Bằng hình thức diễn đạt cô đúc, dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng, bài thơ Phò giá về kinh đã thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.

Qua văn bản "Thiên trường vản vọng" em thấy cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ được tác giả vẽ lên như thế nào?


"Thiên Trường vãn vọng" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông, cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác, bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:

"Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền "
Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này.

Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ "thôn Hậu thôn tiền " và "bán vô bán hữu" liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa, xóm thôn "trước xóm sau thôn" phủ mờ khói như càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiều. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng.

Chỉ bằng 3 nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương nơi yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hổn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh "đạm tự yên " (mờ nhạt như không là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm):

"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiêu man mác có dường không).

Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy gợi thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này:

"Mục đồng địch lí ngưu quy tận"
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân rông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê. Điều đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng - thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ "Hạnh Thiên Trường hành cung" (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):

" Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng Trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua"

Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài ''Hạnh Thiên Trường hành cung" là cảnh chiều thu, đó là điều ai cũng rõ. Trong bài "Thiên Trường vãn vọng" là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết "Thiên Trường vãn vọng" sau năm 1288, khi giặc Nguyên - Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.

Bài tứ tuyệt "Thiên Trường vãn vọng" là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế! CHÚC BN HK TỐT

Câu trả lời:

a)

Bài 1: Là lời của người mẹ khi ru con, nói với con

Bài 2: Là lời người con gái lấy chồng xa quê, nói với mẹ và quê mẹ. Bài 3: Là lời của cháu con nói với ông bà (hoặc nói với người thân) về nỗi nhớ ông bà.
Bài 4: Lời anh, em nói với nhau.

b)

Ca dao, dân ca thuộc loại trữ tình, phản ánh tâm tư tình cảm, thế giới tâm hồn của con người (trữ: phát ra, bày tỏ, thể hiện ; tình: tình cảm, cảm xúc). Nhân vật trữ tình phổ biến trong ca dao, dân ca là những người vợ, người chồng, người mẹ, người con,... trong quan hệ gia đình, những chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu, người nông dân, người phụ nữ,... trong quan hệ xã hội. Cũng có những bài ca dao châm biếm phê phán những thói hư tật xấu của những hạng người và những sự việc đáng cười trong xã hội. Ca dao châm biếm thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. b,Bên cạnh những đặc điểm chung với thơ trữ tình (có vần, nhịp, sử dụng nhiều biện pháp tu từ,...), ca dao, dân ca có những đặc thù riêng: + Ca dao, dân ca thường rất ngắn, đa số là những bài gồm hai hoặc bốn dòng thơ. + Sử dụng thủ pháp lặp (lặp kết cấu, lặp dòng thơ mở đầu, lặp hình ảnh, lặp ngôn ngữ,...) như là một thủ pháp chủ yếu để tổ chức hình tượng.

Câu trả lời:

Hôm ấy, đất dát vàng ánh nắng, trời mát dịu, gió khẽ hôn lên má những người đi đường. Nhưng nó sẽ là ngày tuyệt đẹp, nếu tôi không có bài kiểm tra khoa học tệ hại đến như vậy, hậu quả của việc không chịu ôn bài. Về nhà, tôi bước nhẹ lên cầu thang mà chân nặng trĩu lại. Tôi buồn và lo vô cùng, nhất là khi gặp mẹ, người tôi nói rất chắc chắn vào tối qua: "Con học bài kỹ lắm rồi". Mẹ đâu biết khi mẹ lên nhà ông bà, ba đi công tác, tôi chỉ ngồi vào bàn máy tính chứ nào có ngồi vào bàn học, bởi tôi đinh ninh rằng cô sẽ không kiểm tra, vì tôi được mười điểm bài trước, nào ngờ cô cho làm bài kiểm tra mười lăm phút. Chả lẽ bây giờ lại nói với mẹ: "Con chưa học bài hôm qua" sao? Không, nhất định không.

Đứng trước cửa, tôi bỗng nảy ra một ý "Mình thử nói dối mẹ xem sao". Nghĩ như vậy, tôi mở cửa bước vào nhà. Mẹ tôi từ trong bếp chạy ra. Nhìn mẹ, tôi chào lí nhí "Con chào mẹ". Như đoán biết được phần nào, mẹ tôi hỏi: "Có việc gì thế con"? Tôi đưa mẹ bài kiểm tra, nói ra vẻ ấm ức: Con bị đau tay, không tập trung làm bài được nên viết không kịp”... Mẹ tôi nhìn, tôi cố tránh hướng khác. Bỗng mẹ thở dài! “Con thay quần áo rồi tắm rửa đi!”.

Tôi "dạ" khẽ rồi đi nhanh vào phòng tắm và nghĩ thầm: "Ổn rồi, mọi việc thế là xong". Tôi tưởng chuyện như thế là kết thúc, nhưng tôi đã lầm. Sau ngày hôm đó, mẹ tôi cứ như người mất hồn, có lúc mẹ rửa bát chưa sạch, lại còn quên cắm nồi cơm điện. Thậm chí mẹ còn quên tắt đèn điện, điều mà lúc nào mẹ cũng nhắc tôi. Mẹ tôi ít cười và nói chuyện hơn. Đêm đêm, mẹ cứ trở mình không ngủ được. Bỗng dưng, tôi cảm thấy như mẹ đã biết tôi nói dối. Tôi hối hận khi nói dối mẹ. Nhưng tôi vẫn chưa đủ can đảm để xin lỗi mẹ. Hay nói cách khác, tôi vẫn chưa thừa nhận lỗi lầm của mình. Sáng một hôm, tôi dậy rất sớm, sớm đến nỗi ở ngoài cửa sổ sương đêm vẫn đang chảy "róc rách" trên kẽ lá. Nhìn mẹ, mẹ vẫn đang ngủ say. Nhưng tôi đoán là mẹ mới chỉ ngủ được mà thôi. Tôi nghĩ: Quyển "Truyện về con người" chưa đọc, mình đọc thử xem". Nghĩ vậy, tôi lấy cuốn sách đó và giở trang đầu ra đọc. Phải chăng ông trời đã giúp tôi lấy cuốn sách đó để đọc câu chuyện "lỗi lầm" chăng ! "...

Khi Thượng đế tạo ra con người, Ngài đã gắn cho họ hai cái túi vô hình, một túi chứa lỗi lầm của mọi người đeo trước ngực, còn cái túi kia đeo ở sau lưng chứa lỗi lầm của mình, nên con người thường không nhìn thấy lỗi của mình". Tôi suy ngẫm: "Mình không thấy lỗi lầm của mình sao?". Tôi nghĩ rất lâu, bất chợt mẹ tôi mở mắt, đi xuống giường. Nhìn mẹ, tự nhiên tôi đi đến một quyết định: Đợi mẹ vào phòng tắm, rồi lấy một mảnh giấy nắn nót đề vài chữ. Mẹ tôi bước ra, tôi để mảnh giấy trên bàn rồi chạy ù vào phòng tắm. Tôi đánh răng rửa mặt xong, đi ra và... chuẩn bị ăn bữa sáng ngon lành do mẹ làm. Và thật lạ, mảnh giấy ghi chữ: "Con xin lỗi mẹ" đã biến đâu mất, thay vào đó là một chiếc khăn thơm tình mẹ và cốc nước cam. Tôi cười, nụ cười mãn nguyện vì mẹ đã chấp nhận lời xin lỗi của tôi.

Đến bây giờ đã ba năm trôi qua, mảnh giấy đó vẫn nằm yên trong tủ đồ của mẹ. Tôi yêu mẹ vô cùng, và tự nhủ sẽ không bao giờ để mẹ buồn nữa. Tôi cũng rút ra được bài học quý báu: Khi bạn biết xin lỗi bố mẹ, bạn sẽ có nhiều hơn một thứ bạn vẫn đang có, đó là tình thương.

Câu trả lời:

Câu 4. Giải pháp phi công trình a/ Giải pháp trồng và bảo vệ rừng Giải pháp phi công trình trước tiên phải nói đến là trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn. Việc bảo vệ rừng đầu nguồn giải quyết một lúc nhiều mục đích khác nhau như: - Giảm dòng chảy mặt, hạn chế tối đa hiện tượng lũ quét, bảo vệ tính mạng, tài sản và sản xuất nông nghiệp, chống sạt lở, bảo vệ các công trình xây dựng cơ bản. - Chống xói mòn, điều hoà nguồn nước, tăng lượng dòng chảy ngầm hạn chế hán xảy ra hàng năm, tăng cường dòng chảy mùa cạn trong sông góp phần chống nước mặn xâm nhập vào vùng của sông. - Đảm bảo nguồn nước cho các hồ đập thuỷ lợi lớn nhỏ trong khu vực. - Lập lại cân bằng sinh thái trong vùng, điều hoà khí hậu, thuỷ văn trên lưu vực. Góp phần giảm nguy cơ biến mất của những loài động thực vật quý hiếm. Chúng tôi đã tiến sử dụng Công nghệ GIS tiến hành đánh giá sơ bộ tác dụng của rừng đầu nguồn đến dòng chảy lũ của các tỉnh miền trung cũng như phân tích phân tích và đánh giá mức độ suy thoái của rừng qua các thời kỳ mà nước ta tiến hành tổng điều tra về rừng và ảnh hưởng của nó đến dòng chảy lũ của các sông thuộc 2 tỉnh Bình Định và Quảng trị. b/ Quy hoạch mùa vụ sản xuất và giống cây trồng thích hợp với từng khu vực trong vùng nhằm lách, tránh lũ chính vụ Để bố trí mùa vụ canh tác hợp lý cần nắm bắt được quy luật mưa, lũ, úng ngập xẩy ra theo thời gian từ đó bố trí cây trồng và mùa vụ hợp lý. Thực tế nhiều địa phương ở các tỉnh Ven biển Miền Trung đã bỏ vụ mùa, thay vào đó là vụ hè - thu. Tuy nhiên vụ này cần tránh lũ tiểu mãn và lũ sớm vì vậy cần chọn loại giống cây trồng thích hợp. c/ Xây dựng phương án dự báo, cảnh báo lũ và xây dựng bản đồ cảnh báo ngập lụt. Việc xây dựng một phương án dự báo lũ chính xác có vai trò quan trọng trong việc phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Trong đề tài chúng tôi đã xây dựng hai phương pháp hàm nhiều biến và mạng Nơ ron thần kinh để xây dựng phương án dự báo lũ cho các sông chính ở hai tỉnh Quảng Trị và Bình Định. Dựa vào kết quả dự báo khả năng lũ xẩy ra, kết hợp với việc xây dựng bản đồ ngập lụt, hệ thống các mốc cảnh báo ngập lụt ở những khu vực đông dân cư, các cơ quan điều hành phòng chống lụt bão có thể đưa ra các phương án phòng chống những nơi xung yếu, phương án sơ tán dân các vùng thấp, các vùng có khả năng vận tốc dòng chảy lớn, hạn chế đi lại. d/ Quy hoạch phát triển kinh tế như: các khu công nghiệp, dân cư, kinh tế tập trung đồng thời phải gắn với xây dựng các phương án phòng tránh lũ bão. Trong đề tài chúng tôi đã đã xây dựng các bản đồ ngập lụt tương ứng với các tần suất thiết kế lũ khác nhau cho hai tỉnh Quảng Trị và Bình Định. Từ bản đồ này các tỉnh có thể tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp, các khu dân cư, các khu kinh tế tập trung ở những vị trí thuận lợi, an toàn, tránh những vùng thường xuyên bị ngập lụt ở mức nguy hiểm. Đồng thời các tỉnh cũng cần phải xây dựng các phương án phòng tránh lũ, bão cụ thể số dân cần di chuyển ra khỏi vùng lũ, các vị trí di chuyển đến, các phương tiện cần dùng để 3 di chuyển, thời gian di chuyển trong bao lâu, cần huy động nhân tài vật lực như thế nào. Các phương án phải đề ra cụ thể hệ thống tránh bão, lũ và dự trữ lương thực thuốc men, phương tiện cứu trợ trên sông, trên biển khi gặp thiên tai. Để các phương án này khả thi thì công tác tuyên truyền, đào tạo nâng cao nhận thức của cộng đồng là rất quan trọng. 2. Giải pháp công trình a/ Mở rộng các lòng sông thoát lũ và tăng cường khả năng thoát lũ cho các cửa sông nhờ nạo vét, cải tạo, gia cố, nắn dòng. Đây là một trong những giải pháp công trình được đề cập đến trong ‘‘ Chiến lược và chương trình hành động Quốc gia giảm nhẹ thiên tai ở Việt nam ’’. Tuy nhiên qua nghiên cứu và tính toán thử nghiệm cho hệ thống sông Kôn – Hà Thanh chúng tôi thấy giải pháp này không hiệu quả mà lại rất tốn kém. Việc xây dựng các công trình nắn dòng, nạo vét bùn cát tại cửa các sông là biện pháp không phù hợp với kinh tế nước ta, chi phí rất cao và kết quả chưa được kiểm chứng vì diễn biến cửa sông cửa biển ở khu vực miền Trung nước ta là rất phức tạp, cửa sông thường có hướng di động Bắc – Nam và ngược lại với phạm vi di động tới 10km, tốc độ di động đến 20m/năm, giữa sông với biển thường có một dải cát phân cách, trước cửa sông có doi cát mỏng (Nguyễn Bá Uân 2002). Chính vì vậy để cải tạo thì phải kè rất nhiều và sử dụng các công trình lái dòng để đẩy cát rất tốn kém và tuổi thọ của công trình sẽ không cao do hiện tượng di đẩy. Bài học thực tế cho thấy, sau lũ 1999, rất nhiều tư vấn nước ngoài đầu tư nghiên cứu vào việc bồi lấp cửa tư hiền bị vỡ bằng các biện pháp nạo hút và lấp, biện pháp công trình dùng cọc cừ, nhưng đều thất bại do diễn biến rất phức tạp của cửa sông, nhưng sau đó một thời gian nó lại tự đóng bị bồi lấp trở lại. b/ Xây dựng các công trình và đê ngăn mặn kết hợp cho lũ tràn qua Đây là một trong những biện pháp công trình được đề cập đến  17/8/2017 Câu hỏi của Bùi Thị Phương 5/12 trong ‘‘ Chiến lược và chương trình hành động Quốc gia giảm nhẹ thiên tai ở Việt nam ’’. Tuy nhiên cho đến nay Biện pháp công trình này vẫn chưa được sử dụng nhiều ở các tỉnh miền Trung vì lý do rất tốn kém và mục tiêu chủ yếu lại không phải là tiêu thoát lũ chính vụ, mà là bảo vệ mùa màng và chống lũ sớm, lũ tiểu mãn và ngăn mặn. Các công trình đã được xây dựng có thể thấy đó là : c/ Xây dựng các đê bao, đê khoanh vùng để bảo vệ các khu dân cư, bảo vệ mùa màng. Cho đến nay trong thời gian xẩy ra lũ chính vụ đồng bằng các sông lớn miền Trung vẫn phải chấp nhận lũ tràn ngập trên toàn bộ đồng bằng, có ý kiến cho rằng, việc xây dựng một hệ thống đê bảo vệ đồng bằng này khá tốn kém mà hiệu quả không cao, lý do thời gian duy trì lũ cao ở đây không kéo dài, thứ hai hạ lưu hệ thống có mạng lưới sông ngòi phức tạp, nhiều phân lưu, việc đắp đê chống lũ chính vụ sẽ có khối lượng rất lớn, vì vậy vùng đồng bằng này vẫn phải chấp nhận ngập lụt hàng năm khi lũ chính vụ về, theo chúng tôi đây là một chủ trương đúng Đối với vùng này, qui trình đầu tư tích cực gia cố các tuyến đê không chỉ thực hiện bằng vốn đầu tư trong nước mà cũng cả vốn đầu tư nước ngoài nhưng chỉ với mục tiêu chống 4 lũ sớm, lũ tiểu mãn (tháng VI) được hình thành từ bờ kênh của các kênh tưới để bảo vệ vụ lúa sớm (vụ Hè thu) ở vùng đồng bằng thấp trũng. Tuy nhiên hệ thống đê điều này cũng có ảnh hưởng nhất định. Đối với lũ chính vụ lớn thì hệ thống đê điều chống lũ hiện nay vẫn bị lũ tràn qua với mực nước lũ nội đồng tồn tại khá sâu nên thực tế không những không có tác dụng chống lũ chính vụ mà còn gây thiệt hại nặng hơn, bởi vì: Nước ngập vùng trũng không ngập theo kiểu tự nhiên tràn bờ, tốc độ dòng chảy dâng từ từ qua mạng lưới sông rạch các cấp mà ngập theo kiểu lũ tràn đột ngột qua bờ bao khá cao trong khi đồng vẫn giữ mực nước thấp, tạo thành những trận lũ quét giả tao. Nước tràn vào ồ ạt, nhưng không tháo ra do bờ đê cản trở, các cống tiêu chậm, gây thiệt hại nặng cho hạ tầng cơ sở vì thời gian ngập kéo dài, và ảnh hưởng đến thời gian xuống giống Đông Xuân kế tiếp. d/ Xây dựng hệ thống các hồ chứa cắt lũ trên lưu vực sông Mục tiêu của hồ chứa là trữ nước trong thời gian có mưa lũ lớn để cung cấp nước cho thời gian khô hạn mặt khác các hồ chứa còn có tác dụng điều tiết lũ và giảm lũ xuống hạ lưu. Đây là biện pháp công trình không chỉ được đề cập đến trong ‘‘Chiến lược và chương trình hành động quốc gia giảm nhẹ thiên tai của Việt Nam ” mà còn được nghiên cứu và đề xuất xây dựng trong rất nhiều nghiên cứu mà cụ thể là nghiên cứu “Phát triển và quản lý tài nguyên nước quốc gia của 14 lưu vực sông lớn của Việt Nam” do JIC A và Bộ Nông nghiệp và PTNT thực hiện. Với các tỉnh miền Trung hàng loạt các hồ chứa đang được xây dựng như hồ Cửa Đạt trên sông Mã, hồ Bản Vẽ (Bản Lã) trên sông Cả, hồ Rào Quán trên sông Thạch Hãn, hồ Tả Trạch trên sông Tả Trạch, hồ Bình Điền trên sông Hữu Trạch, hồ Cổ Bi trên sông Bồ, hồ A Vương trên sông A Vương – nhánh sông thuộc hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn, hồ Nước Trong trên sông Trà Khúc, hồ Định Bình trên sông Kôn..vv. Ngoài những hồ đã và đang được xây dựng nói trên, ở các sông lớn miền Trung còn có các hồ được đề xuất xây dựng như hồ Phú Thành ở Quảng Trị (thượng lưu sông Thạch Hãn), Đá Mài ở tỉnh Bình Định...vv. Tất cả các hồ này đều là những hồ đa mục tiêu: phòng lũ, cấp nước, phát điện, trong đó mục tiêu phòng lũ được đặc biệt ưu tiên. Theo đánh giá trong các báo cáo nghiên cứu khả thi của các hồ này thì các hồ đều có tác dụng lớn trong việc điều tiết lũ tốt cho khu vực thượng lưu và trung lưu các con sông. Trong phạm vi tính toán của đề tài, chúng tôi đã tiến hành xem xét khả năng phòng lũ của 2 hồ đó là hồ Định Bình trên sông Kôn và hồ Phú Thành trên sông Thạch Hãn. Kết quả tính toán thủy lực cho thấy: Đối với sông Kôn, việc cắt lũ của hồ Định Bình cho hạ du là không đáng kể, ví dụ như lũ 1999 có hồ Định Bình cũng chỉ cắt lũ từ 10 - 40cm. Lý do ở đây có thể thấy sông Kôn là một sông rất dài, vị trí hồ Định Bình thì ở trên thượng lưu, dung tích phòng lũ khoảng 220 triệu m3, vì vậy chỉ có tác dụng lớn trong việc điều tiết và cắt lũ cho khu vực thượng lưu và trung lưu, còn khu vực hạ lưu ven biển là không đáng kể. Do đó ngoài giải pháp công trình hồ điều tiết đối với vùng đồng bằng sông Kôn và Hà Thanh cần kết hợp với các gải pháp khác. Đối với sông Thạch Hãn tỉnh Quảng Trị vai trò cắt lũ của hồ chứa Phú Thành rất lớn, theo tính toán thủy lực trận lũ năm 1999 ở trạm thủy văn Thạch Hãn mực nước giảm khoảng 5 1.30m. Điều này làm cho việc phòng chống lũ ở hạ lưu đồng bằng Thạch Hãn có ý nghĩa rất lớn. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay hồ này vẫn chưa được xây dựng vì lý do kinh tế mà hồ Rào Quán lại được xây dựng trước. Như vậy biện pháp xây dựng hồ chứa là một biện pháp có hiệu quả đối với các sông lớn miền Trung vì nó không những chỉ có tác dụng trong việc phòng lũ mà còn đem lại nguồn lợi lớn từ việc phát điện do vậy dễ thu hút vốn đầu tư. 3. Giải pháp tránh lũ và sống chung với lũ (giải pháp kết hợp) Khác với đồng bằng Bắc Bộ phương châm là chống lũ triệt để của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình thì đối với các sông suối miền trung giải pháp tránh lũ cần đặt ra với các lý do sau đây: Với các sông Miền trung có diện tích không lớn, sông ngắn và dốc, lũ thường lên nhanh, xuống nhanh. Thời gia lũ kéo dài không lâu nên khi lũ về chủ động phòng tránh, di dân trong thời gian lũ xẩy ra là hợp lý (việc xây dựng bản đồ ngập lụt bao gồm vùng ngập và độ sâu ngập và dự báo lũ như chúng tôi đã thử nghiệm cho 2 hệ thống sông Kôn – Hà Thanh, tỉnh Bình Định, sông Thạch Hãn, Bến Hải, tỉnh Quảng trị sẽ là một cơ sở khoa học cho việc đưa ra các phương án phòng tránh và di dân). Để thưc hiện giải pháp này ta chú ý các vấn đề sau: 1. Xác định mức độ ngập lụt các vùng để quy hoạch dân cư và phương án phòng tránh lũ cho từng vùng dân cư cụ thể. 2. Để đảm bảo an toàn cho tính mạng người dân ban chỉ đạo phòng chống lũ phải thực hiện kiên quyết việc chỉ đạo sơ tán dân khi có lũ lớn. Ngoài ra để sống chung với lũ cần có sự đầu tư cơ sở hạ tầng kiên cố, ví dụ như ở tỉnh Bình Định đã đầu tư bê tông hoá các tuyến đường giao thông liên huyện liên xã vùng đồng bằng sông Kôn - Hà Tranh, tạo điều kiện đi lại cho dân sau khi lũ đã đi qua, tránh đường đất lầy lội như trước đây.