Người hay giúp bạn khác trả lời bài tập sẽ trở thành học sinh giỏi. Người hay hỏi bài thì không. Còn bạn thì sao?
Chưa bao giờ thói a dua của chúng ta lại rộ lên và trầm trọng như thời đại fb và nhiễu loạn truyền thông này.
A dua là thói hùa theo kẻ mạnh( tất nhiên, chỉ nhắm mắt chạy theo thì mới là hùa theo, và hùa theo cái tiêu cực thì được gọi là a dua).Cụ thể là hùa theo suy nghĩ, phát ngôn, hành động của đám đông và những cá nhân có ảnh hưởng.Thói tật này có thể làm con người đánh mất mình nhanh chóng và ngọt ngào nhất.Nghĩa là con người tức khắc đánh rơi mất mất cái đầu của mình cùng lòng tự trọng, ý thức tự tôn.Và, mất mà đinh ninh là mình đc.
A dua xét đến cùng là căn bệnh của kẻ yếu.Yếu về phẩm chất và năng lực.Vì thế là thiếu tự ti, thiếu bản lĩnh.Cho nên nó lệ thuộc vào kẻ mạnh, bị kẻ mạnh thao túng mà không tự biết,vì bao giờ xũng xem kẻ mạnh là chân lí,là lẽ phải.Dần dần nó mất khả năng nhu cầu suy xét, nhất nhất hùa theo kẻ mạnh, bất luận đúng- sai hay- dở
câu 1: xác định phương thức biểu đạt
câu 2: chỉ ra tác hại của thói dua nêu trong đoạn trích trên
câu 3: tại sao tác giả cho rằng thói a dua khiến cho con người" mất mà đinh ninh là mình đc"?
câu 4: Anh/ chị có cho rằng:" dua, xét đến cùng là căn bệnh của kẻ yếu"hay không? vì sao?


giới thiệu một món ăn truyền thống trong ngày tết ở quê em ( bánh chưng, dưa hành.....) huế
P/S ko chép mạng
Được cập nhật Hôm kia lúc 17:07 4 câu trả lời


Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.
Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.
Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..
Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.
Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.
Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

bạn ơi bài này mình làm cô giáo chấm 7,75 nhen bạn.
Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn về những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, ý nghĩa đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.
Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.
Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.
Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..
Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.
Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
ĐỐi với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.
Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.
Hãy giới thiệu về phong tục gói bánh chưng trong ngày tết coortruyeenf của dân tộc Việt Nam?
Được cập nhật 16 tháng 2 lúc 19:03 1 câu trả lời


Mỗi độ Tết đến xuân về lòng người lại rộn ràng hơn, người người hối hả tất bật chuẩn bị đón tết. Không khí cận kề những ngày đầu của năm mới luôn đầm ấm, chan hòa tươi vui. Và hình ảnh quen thuộc chắc hẳn ai cũng nhớ đến ngay khi nghĩ về ngày tết đó là nồi bánh chưng bếp lửa bập bùng.
Gói bánh chưng từ lâu đã trở thành phong tục của người Việt mỗi độ xuân về. Được ví như linh hồn của ngày tết, nồi bánh chưng là hình ảnh không thể thiếu của ngày tết quê hương. Được ra đời theo sự giải thích của sự tích bánh chưng bánh giầy của người dân Việt, gói bánh chưng ngày tết đã trở thành phong tục của người Việt từ bao đời. Theo sự tích này, tục gói bánh chưng bánh giầy bắt đầu có ở nước ta từ thời vua Hùng. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, với hơn 1000 năm Bắc thuộc và 100 năm nô dịch phương Tây, gói bánh chưng ngày tết vẫn giữ vẹn nguyên giá trị, trở thành truyền thống của người dân Việt. Trong sự tích trên, bánh chưng bánh giầy được một vị hoàng tử tên là Lang Liêu làm ra để dâng lên vua cha vào ngày lễ cúng tổ tiên. Và vì thế, chàng đã được vua cha nhường ngôi. Kể từ đó, bánh chưng đã trở thành món ăn không thể thiếu để dâng lên tổ tiên, thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên. Ý nghĩa của chiếc bánh chưng đã khiến nó trở thành một món ăn quý. Với hương thơm cùng vị ngon của nó, nó vẫn xứng đáng là món ăn phù hợp với thờ cúng tổ tiên.
Người Việt Nam chúng ta chuộng đạo Phật, những người không theo đạo phật vẫn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bởi vì thế, mà ngày tết, mâm cơm thờ cúng luôn được các gia đình chs trọng. Chiếc bánh chưng đặt lên mâm thờ phải đẹp phải ngon, đúng với ý nghĩa của chiếc bánh chưng vào dịp Tết. Chính vậy, phong tục gói bánh chưng vẫn cứ mãi trường tồn cùng năm tháng. Ngày cận kề xuân sang, người người nhà nhà đua nhau gói bánh chưng khiến không khí càng thêm đầm ấm vui vẻ. Con cái ở xa về đoàn tụ với gia đình, những người chồng, người vợ tha hương cũng trở về với căn nhà ấm áp để đón xuân. Cả nhà quây quần dưới mảnh chiếu trước sân, cùng lau lá, đãi đỗ, vo gạo, nêm muối để chuẩn bị gói bánh. Các bà các mẹ khéo tay gói từng chiếc bánh một cách cẩn thận, bọn trẻ con cười đùa nhóng nhẽo thấy hay cũng chạy lại đòi gói đòi nêm. Không khí rộn ràng vui tươi càng làm mọi người thêm ấm áp. Cái không khí ấy, một đời người không sao quên được. Những ai xa quê không thể trở về với mái nhà mẹ già đang ngóng, con nhỏ đang trông thật sự thèm lắm cái không khí ấy. Thông thường, mọi người sẽ gói bánh gần ngày 30 Tết, thường là trước ngày 30 Tết một ngày. Mục đích là bởi để đêm ngày 30 Tết sẵn sàng có chiếc bánh chưng thơm ngon để dâng lên ông bà tổ tiên. Những nồi bánh chưng to, khói bốc nghi ngút luôn hấp dẫn mấy đứa trẻ con trong nhà. Chúng háo hức được nhín thấy những chiếc bánh mà hổi chiều mẹ gói, có khi muốn nếm thứ chiếc bánh nhỏ xinh méo mó mà là chiếc bánh chưng đầu tay của chúng nó. Nên, chúng luôn được giao nhiệm vụ trông nồi bánh chưng. Nồi bánh chưng được đun bằng củi, lúc nào cũng phải đảm bảo lượng lửa liu riu, chỉ cần mất tập trung, bánh nấu xong sẽ không ngon. Những gương mặt nhỏ xinh hồn nhiên, ánh mắt sáng bừng vì có ánh lửa chiếu vào, không ai có thể không yêu những ánh mắt ngây thơ ấy. Nồi bánh chưng là một điểm sáng của ngày tết, là linh hồn của ngày tết. Thiếu đi những nồi bánh chưng bập bùng ánh lửa, tết sẽ mất đi hương vị của nó.
Ngày nay, với guồng quay công việc tất bật và bận rộn, nhiều gia đình đã không thể có những nồi bánh chưng, những không khí ấm áp quanh chiếc chiếu bánh chưng ngày cuối năm. Không khí tết cũng ngày càng nhạt dần vì lý do đó. Chính vì thế, ở nhiều nơi, mọi người đã vận động, khuyến khích nhau tiếp tục thực hiện phong tục này để tìm lại hương vị ngày Tết. Thông qua các cuộc thi gói bánh chưng, không khí tết phần nào đã trở về với từng góc nhà ngõ nhỏ. Có thể thấy, dù trải qua bao thanwng trầm, ba sự đổi mới, phong tục gói bánh chưng vẫn là phong tục đẹp đẽ, với ý nghĩa nhân văn, và là hơi thở của ngày Tết quê hương.
Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của nguyễn trãi
Được cập nhật 13 tháng 2 lúc 18:14 4 câu trả lời

I. Mở bài
– Nguyễn Trãi người anh hùng của dân tộc được cả thế giới biết đến.
– Một nhà quân sự nổi tiếng có công sáng lập ra nhà Hậu Lê và cũng là nhà thơ lớn.
– Cuộc đời ông có nhiều điều uất ức và bi thảm nhưng ông để lại nhiều giá trị văn học cho hậu thế.
II. Thân bài
1. Cuộc đời & sự nghiệp
– Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Dương.
– Nguyễn Trãi là con của gia đình có truyền thống yêu nước, văn học.
– Vào năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, cả cha và con đều làm quan.
– Năm 1407, nhà Hồ khởi nghĩa thất bại, giặc Minh chiếm nước ta, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, còn ông Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến chống giặc.
– Vào những năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi trước quân Minh, đó cũng là thời gian mà ông viết “Bình Ngô đại cáo”.
– Chỉ sau thời gian ngắn, triều đình lục đục, gian lận lộng hành, ông xin về ở ẩn.
– Vua mời ông ra phụ giúp việc nước nhưng vào năm 1442 ông dính vào vụ án Lệ chi Viên nổi tiếng, gia đình 3 đời bị xử trảm.
– Vụ án Lệ Chi Viên vụ án oan trong lịch sử và được vua Lê Thánh Tông minh oan vào năm 1464.
– Nguyễn Trãi được minh oan và trong sạch để lại tiếng thơm muôn đời.
– Nguyễn Trãi chính thức trở thành danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1980.
2. Đóng góp vào văn học
– Không chỉ là nhà quân sự, Nguyễn Trãi có rất nhiều những đóng góp quan trọng vào văn học đương thời và có giá trị đến hiện nay.
– Nguyễn Trãi nhiều tác phẩm nổi tiếng văn chính luận, thơ trữ tình. Các tác phẩm của ông được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.
– Ông là nhà thơ xuất sắc với các tập thơ: “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”.
– Ông là nhà chính luận nổi tiếng: “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”, các thể loại chiếu…
– Các tác phẩm của ông đều thể hiện lòng yêu nước, thương dân, lý tưởng nhân nghĩa. Thơ trữ tình của ông chân thực, giản dị và gần gũi với thực tế.
III. Kết bài
– Nguyễn Trãi xứng đáng là người hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thời đại.
– Cuộc đời của ông để lại nhiều đau thương, bị thảm nhưng tiếng thơm muôn đời và sự kính phục của thế hệ sau.

- Mở bài:
Nguyễn Trãi là một nhà thơ, nhà văn, nhà quân sự, nhà chính trị lỗi lạc của dân tộc ta; là danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ. Trong đó nổi bậc nhất là tập “Quân trung từ mệnh tập” – một tập đại thành về nghệ thuật đánh giặc và áng văn “Bình Ngô đại cáo” – một thiên cổ hùng văn nức tiếng đến muôn đời. Thế nhưng, cuộc đời của Nguyễn Trãi cũng là một cuộc đời phi thường và nghiệt ngã xưa nay chưa từng có.
- Thân bài:
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê ở Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội.
Nguyễn Trãi thời kì đi học:
Ông là con thứ của Nguyễn Phi Khanh, một đại quan triều Hồ. Gia tộc ông có truyền thống hiếu học, lại nổi tiếng nghĩa khí, cương trực, luôn giúp đỡ và bảo vệ dân lành. Truyền thống tốt đẹp ấy gây ảnh hưởng sâu sắc đối với tài năng và tính cách của Nguyễn Trãi sau này.
Tròn 6 tuổi, mẹ mất, ông phải về Côn Sơn ở với ông ngoại Trần Nguyên Đán. Năm 1390, Trần Nguyên Đán cũng qua đời, Nguyễn Trãi theo cha trở về sống ở làng Nhị Khê, Hà Nội. Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập. Ông nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân. Nhà sử học Phan Huy Chú từng nhận xét Nguyễn trãi tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, ông đều am hiểu cả.
Nguyễn Trãi thời kì làm quan:
Năm 1400, nhà Hồ thành lập và mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh. Năm đó ông đứng thứ tư, được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng.
Năm 1407, nhà Minh xâm lược nước ta. Hồ Quý Ly do khinh địch, không kịp phòng bị, lại không được lòng dân nên kháng chiến thất bại. Nguyễn Phi Khanh, cha Nguyễn Trãi, cùng nhiều quan lại khác bị bắt giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi cùng người em đi theo chăm sóc cha. Nghe lời cha dặn, Nguyễn Trãi tìm đường trở về, tính kế trả thù cứu nước.
Nguyễn Trãi thời mười năm phiêu dạt tìm đến núi Lam Sơn, quyết tâm đánh giặc cứu nước:
Khi trở về nước, Nguyễn Trãi quyết chí phục thù, đánh giặc cứu cha. Ông rong ruổi khắp nơi vừa để trốn tránh bị bắt vừa mong gặp người hiền tài, kêu gọi những ai cùng chung ý chí đứng lên chống giặc.
Năm 1416, nghe tiếng Lê lợi, một người anh hùng có chí lớn đang chiêu binh, ông tìm đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dâng cho Lê Lợi tác phẩmBình Ngô sách. Ông nhanh chóng được Lê Lợi thâu nhận và trọng dụng. Từ đó, ông gắn bó với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn.
Không những tham gia xây dựng đường lối quân sự, chính trị phù hợp, Nguyễn Trãi còn đảm đương những nhiệm vụ quan trọng như soạn thảo thư từ địch vận, tham mưu, vạch ra chiến lược chiến thuật cho nghĩa quân. Ông góp công sức rất lớn tạo nên những chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn.
Năm 1428, kháng chiến thành công, ông được Lê Lợi giao cho soạn bài cáo Bình Ngô. Từ đó, ông làm quan dưới triều Lê, góp công xây dựng, phát triển đất nước vững bền. Thời kì làm quan thăng trầm trôi nổi. Nhiều lúc chứng kiến kẻ gian thần lộng hành mà ông can gián vua không nghe, bất mãn ông xin từ quan ở ẩn một thời gian ở núi Côn Sơn.
Khi Lê Thái Tôn lớn lên, hiểu rõ Nguyễn Trãi, nhà vua đã cho vời ông trở lại làm quan. Vua cho ông giữ chức Tả gián nghị đại phu. Rất mừng rỡ, ông viết bài Biểu tạ ơn hết sức xúc động và lại hăng hái ra giúp nước, chỉnh đốn kỷ cương, đào tạo nhân tài.
Năm 1442, một lần ghé thăm gia đình Nguyễn Trãi ở vườn Lệ Chi, vua Lê Thái Tôn chẳng may băng hà. Lợi dụng sự việc này, bọn gian thần vốn xưa nay ganh ghét Nguyễn Trãi đã vu cho ông tội giết vua và nhận án bị tru di tam tộc. Đây là một kì án thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Mãi 20 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới giải được hàm oan này, khôi phục lại danh dự cho Nguyễn Trãi.
Nhận xét chung:
Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ. Ông kiên quyết chiến đấu chống bạo lực xâm lược và chống gian tà. Tư tưởng nhân nghĩa là đỉnh cao chói sáng trong thơ ông. Quan điểm xem văn chương là vũ khí chiến đấu thể hiện rõ trí tuệ sáng suốt của một thiên tài và bản lĩnh của một chiến sĩ dũng cảm.
Cuộc đời Nguyễn Trãi cho chúng ta bài học quý báu về tinh thần nhân đạo, nhiệt tình chiến đấu, quan điểm mạnh dạn đổi mới, sáng tạo. Trên cơ sở của thực tiễn và kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược.
Nguyễn Trãi còn vận dụng rất thành công thuật tâm công (đánh vào tâm lí) trong cuộc chiến chống kẻ thù. Bởi ông nắm vững tâm lí của con người, thấu hiểu quy luật vận động của nó, sự biến chuyển của thời cuộc, nên đã có những lời lẽ đi thằng vào lòng người làm nên những đổi thay to lớn theo chiều hướng mà ông mong muốn. Bộ Quân trung từ mệnh tập được Phan Huy Chú đánh giá có sức mạnh hơn mười vạn quân là cũng bởi vì thế. Có thể nói, Nguyễn Trãi là người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng chiến tranh nhân dân.
Sự nghiệp văn học Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi…
Văn chính luận:
Bình Ngô đại cáo là bài cáo tổng kết toàn bộ công cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Có thể nói, công lao lớn đầu tiên của Nguyễn Trãi trên lĩnh vực tư tưởng là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và cũng rất sớm đối với lịch sử thế giới, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách mạnh mẽ và đanh thép sự tồn tại của dân tộc Việt Nam. Đó là quyền độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết và quyền bảo tồn phát triển nền văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi gửi cho các thủ lĩnh các cứ, các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm 1427. Nội dung chính là trình bày quan điểm, khẳng định lập trường, nhận định thời thế, kêu gọi chiêu hàng.
Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn. Quyển này Nguyễn Trãi kết hợp với các sử quan triều đình biên soạn theo lệnh của Lê Thái Tổ năm 1431
Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ.
Nghiên cứu Địa lý:
Dư địa chí là quyển sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam.
Thơ phú:
Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ. Tập thơ thể hiện sâu sắc phong thái thanh cao và tinh thần cứng cỏi của một bậc đại Nho.
Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm duy nhất của Nguyễn Trãi và cũng là tập thơ chữ Nôm đầu tiên của nền văn học Việt Nam. Cho đến nay, tập thơ này được lưu truyền và bảo tồn khá nguyên vẹn, trở thành nguồn tư liệu quý giá trong công tác nghiên cứu chữ Nôm.
Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422.
Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời ông ngoại Trần Nguyên Đán.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay.
- Kết Bài:
Trong tâm trí thế hệ các con cháu hôm nay và mai sau, ngôi sao Khuê Nguyễn Trãi mãi mãi còn chiếu sáng, mãi mãi là một vị anh hùng dân tộc, thể hiện trong ông ý chí kiên cường, sáng suốt của một vị cố vấn quan trọng, một thi sĩ tài ba, một nhà ngoại giao và là nhà chiến lược quân sự xuất sắc. Nguyễn Trãi là sản phẩm của dân tộc, là sự kết tinh của tinh hoa dân tộc và thời đại, là người phát ngôn tư tưởng lí tưởng lớn của thời đại. Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Duongleteach.comBÀI VIẾT SỐ 5 - LỚP 10
Phần đọc-hiểu: Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Cơm hến Huế có một phong vị rất riêng, rất khó lẫn với các nơi khác và không biết từ bao giờ đã thâm nhập một cách sâu đậm vào khẩu vị và lòng người xứ Huế. Ăn cơm hến muốn đúng điệu phải ăn vào buổi sáng, lúc cơ thể có thể thưởng thức được tận cùng của chữ "ngon" sau một đêm dài. Buổi sáng tinh mơ khí trời lành lạnh, gánh cơm hến với nồi canh ngào ngạt toả hương quyện theo bước chân kĩu kịt của các mệ, các o rồi đậu xuống từng góc đường quen thuộc. Bưng bát cơm hến nóng ấm toả mùi thơm quyến rũ trên tay vừa nghe các mệ, các o nhỏ to tâm sự về cách chế biến món ăn này bằng cái giọng Huế ngọt ngào của mình, du khách sẽ có cảm giác như thể mình là người thân quen từ bao năm xa cách trở về dù rằng mới chỉ lần đầu "đến với Huế mộng mơ". Hến xúc ở dưới sông lên, luộc rồi tách cái (con hến) và nước hến thành hai món chính. Cơm trắng để nguội, đơm vào đọi (bát) rồi bày rau sống, bắp chuối, đậu phụng (lạc), mè (vừng) rang giã nhỏ bày lên trên. Một tô nước hến múc ra có màu lam đục, nhưng đã kịp đổi sang một màu đỏ gạch của ớt khi được chan vào bát cơm. Khách ăn có thể nêm thêm gia vị như mỡ, ruốc, muối rang, mè... và ăn kèm khế chua, rau sống, chuối sứ xắt nhỏ tuỳ theo khẩu vị của từng người. Lúc đó, các mùi vị hỗn hợp như ngọt, bùi, chát, chua, cay tưởng như xung khắc mà lại rất hữu ý với nhau sẽ cùng toả trên bát cơm hến làm cho người có cái "gu" ẩm thực dù kỹ tính đến mấy cũng phải hài lòng.
(Tham khỏa nguồn: vietbao.vn)
Câu 1: Đoạn trích trên thuộc kiểu văn bản thuyết minh nào không? Vì sao?
Câu 2: Xác định đối tượng, mục đích thuyết minh của đoạn trích?
Câu 3: Phân tích tính hấp dẫn của đoạn trích?
Phần làm văn: Anh/Chị hãy thuyết minh về một phong trào / hoạt động của trường (hoặc của lớp).


mình làm bài này rùi ,cô giáo mình chấm 7,75 nhé!!
Hằng tuần, trường… luôn dành thời gian cho hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tổ chức nhiều hình thức học tập về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như kể các câu chuyện về cuộc đời hoạt động của Bác Hồ, hát ca ngợi Bác, thi tìm hiểu về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức sinh hoạt theo các chủ đề: “Tuổi trẻ của Bác Hồ”, “Thời niên thiếu của Bác Hồ”, “Mỗi tuần một câu chuyện”.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ là một trong ba hoạt động quan trọng, là bộ phận hợp thành cuả giáo dục, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục cuả nhà trường. Chính từ những hoạt động như: lao động, sinh hoạt tập thể, đã góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách cuả học sinh: biết tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện con ngừơi . Có thể nói khái quát hơn việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là xây dựng cho học sinh các mối quan hệ phong phú, đa dạng, một cách có mục đích, có kếhoạch có nội dung và phương pháp nhất định. Biến các nhu cầu khách quan cuả xã hội thành những nhu cầu cuả bản thân học sinh.
Vì thế, hoạt động ngoài giờ lên lớp có liên quan đến việc mở rộng kiến thức, tư tưởng, tình cảm , năng lực nâng cao thể lực, thể chất và tinh thần học sinh. Do vậy , cần thiết phải kết hợp việc sinh hoạt cuối tuần với việc rèn luyện kĩ năng thực hành, giúp học sinh hiểu sâu hơn và nắm bản chất cuả sự vật hiện tượng, tạo niềm tin và óc sáng tạo cho các học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức, bao gồm hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao nhằm phát triển năng lực toàn diện cuả học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, các hoạt động vui chơi, tham quan du lịch, giao lưu văn hoá… các hoạt động bảo vệ thiên nhiện, môi trường, các hoạt động lao động công ích, các hoạt động xã hội, các hoạt động từ thiện phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lưá tuổi học sinh .
Qua phân tích trên cho thấy tầm quan trọng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: góp phần rất lớn cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung và mục đích học tập cuả nhà trường nói riêng.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự nối tiếp hoạt động dạy - học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, thực hành, góp phần giáo dục học sinh toàn diện về đức - trí - thể - mỹ. Thực chất, xứng đáng với niềm tin yêu, tự hào của bao lớp cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh cũng như phụ huynh học sinh dưới mái trường này.
Việc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường hiện nay không ngoài mục đích đạt được những điều quan điểm giáo dục cuả Đảng đã đề ra mà từng cán bộ quản lý , nhất là Hiệu trưởng cần có nhận thức đầy đủ đúng mức tầm quan trọng của nó trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong nhà trường , nhiệm vụ dạy và học mới có thể khắc phục các khó khăn và tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp có hiệu quả .
Có thể nói, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận của quá trình giáo dục của nhà trường Trung học phổ thông. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học trên lớp. Hoạt động là sự tiếp nối, bổ sung, hỗ trợ hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, nhằm lôi cuốn đông đảo học sinh tham gia để mở rộng hiểu biết, tạo không khí vui tươi lành mạnh, tạo cơ hội để học sinh rèn luyện thói quen sống trong cộng đồng và phát huy tối đa năng lực, sở thích của từng cá nhân. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, của trường... trong nhiều năm học vừa qua đã góp phần quan trọng vào chất lượng giáo dục của nhà trường.

Phần làm văn:
Trường học là nơi chúng ta được sống và học tập bên cạnh những người mà chúng ta yêu quý. Đó là thầy cô, là bè bạn, những mối quan hệ gắn bó và là khoảng thời gian đẹp nhất của mỗi người. Ở trường, chúng ta được tham gia các phong trào thi đua, nhưng có lẽ phong trào "Trồng cây xanh" là phong trào thiết thực nhất để thể hiện thái độ bảo vệ môi trường của các bạn học sinh.
Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát
Trên vòm cây
Chim hót lời mê say
Ai trồng cây
Người đó có ngọn gió
Rung cành cây
Hoa lá đùa lay lay
Môi trường là vấn đề đang được toàn nhân loại quan tâm. Bởi vì ô nhiễm môi trường đang diễn ra ngày càng nặng nề.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều những biện pháp thiết thực nhằm giảm thiểu sự ô nhiễm và ngăn chặn các hậu quả xấu của ô nhiễm môi trường; trong đó con
người và hành động của con người chiếm vị trí cốt lõi.
Ở các trường học, ngoài những phong trào về thi đua học tốt, tri ân thầy cô, phát triển tài năng…vv…. thì những phong trào nhằm chung tay vì môi trường xanh
sạch đẹp cũng được phổ biến rộng rãi.
Phong trào nào cũng đi kèm vớisự thi đua và thành tích kết quả đạt được
Ngày hội trồng cây là một ngày vui vẻ và sôi nổi bởi tất cả các bạn đều được tham gia vào phong trào, các khối lớp thi đua về số lượng cây trồng và chất lượng
sau chăm sóc. Phong trào hứa hẹn một tương lai bạt ngàn màu xanh tươi mát, không khísẽ trong lành và cuộc sống của con người được tốt đẹp hơn.
Có thể thấy rằng chỉ bằng những biệc nhỏ bé nhưng phong trào đã xây dựng được niềm tin, sự hang say và ý thức trong mỗi học sinh, giáo viên và mọi người
xung quanh. Mỗi thành viên trong nhà trường đều cảm thấy hài lòng với thành quả đạt được trong hoạt động xanh hoá và từ đó càng yêu quý, giữ gìn tốt môi
trường lớp học và trường học của mình. Không gian xanh trong các trường học không chỉ tạo cảnh quan xanh – sạch -đẹp, thoáng mát, điều hòa không khí, mà
còn là nơi để cô giáo, học sinh thư giãn, nghỉ ngơisau những giờ dạy và học căng thẳng. Một sự thật hiển nhiên rằng chỉ có môi trường xanh sạch đẹp mới tạo
hứng thú, tâm lý thoải mái cho con người khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Để được công nhận là ngôi trường “Xanh – Sạch – Đẹp” thì điều kiện cần và đủ
là nhà trường bảo đảm được độ an toàn về vệ sinh và là một nơi học tập tốt cho học sinh. Chính vì thế, ngày càng có nhiều trường quan tâm đến việc xây dựng
trường với không gian xanh bằng việc phát động thường xuyên các phong trào hữu ích như thế. Chúng ta tin rằng trong một tương lai không xa, nơi nào chúng ta
đến cũng sẽ là một màu xanh được phủ kín, lá phổi của nhân loại ngày càng được tô đậm và lan rộng ra thay vìsự ô nhiễm hiện có. Có thể nói những hoạt động
như trồng cây xanh, xu dọn rác thải… đã và đang góp phần đẩy mạnh thực hiện xây dựng cốt lõi “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực ” để học sinh luôn
cảm thấy mình được sống có ý nghĩa,“mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Có được kết quả từ phong trào trên là do sự hưởng ứng, đồng tình tích cực từ
học sinh, hội đồng nhà trường và sự giúp sức của hội cha mẹ học sinh, của đoàn xã.
Tóm lại phong trào “Trồng cây xanh” là một trong những hoạt động tích cực mà các trường học hưởng ứng, thi đua. Phong trào không chỉ mang giá trị thực tế
là trồng được nhiều cây xanh, tạo không gian thoáng mát trong lành; mà nó còn là một bài học bổ ích về sự giáo dục học sinh biết yêu thương và bảo vệ môi
trường sống.
Nhận xét về "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi, có ý kiến cho rằng: "Tác phẩm khẳng định sức mạnh của lòng yêu nước."Ý kiến khác lại cho rằng:"Bài Cáo thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân nghĩa trong Nguyễn Trãi."
Bằng những hiểu biết về tác phẩm "Đại cáo bình Ngô", anh chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về các ý kiến trên.

Trong Bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu viết:
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu,
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng.
Qua cuộc đời và văn thơ Nguyễn Trãi, hãy làm sáng tỏ ý thơ trên.


mình từng làm bài này rồi và được cô giáo sửa lại chấm 7,25 nhé!
"Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêuTiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng"(Tố Hữu)Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim "ưu thời ái quốc", -thâm thuý, sắc bén, đầy biến hoá trong tài mưu lược chính trị -nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ về thiên nhiên, cây cỏ, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim mỗi người dân Viêt Nam, trong lịch sử dân tộc.Lắng mình cùng dòng chảy thời gian, trở về với mảnh đất Hải Dương -nơi đã sinh thành, nuôi dưỡng con người tài hoa Đất Việt Nguyễn Trãi, ta mới thấu hiểu rằng lấp sau mũ quan, áo gấm là một thời ấu thơ đầy bão dông. Nguyễn Trãi (1380 -1442) sinh ra và lớn lên tại làng Chi Ngại, là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần nguyên Đán. Thật may mắn khi con người vốn đã tài hoa, kiệt xuất trời xinh ấy lại được nuôi dưỡng, lớn lên trong một gia đình mà truyền thống yêu nước, văn hoá, văn học đã trở thành một niềmtự hào sâu sắc.Thế nhưng, hạnh phúc vừa cầm
nắm trong tay thì cuộc đời giông tố đã ập đến khiến Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát đau thương. Ông để tang mẹ lúc 5 tuổi rồi lại ông ngoại qua đời khi vừa tròn 10 tuổi. Vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về tinh thần, nỗ lực học tập, năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, cha ông bị chúng bắt sang Trung Quốc. Gánh nặng hai vai là món nợ non sông và mối thù nhà khôn xiết. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi từ Đông Quan tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa. Ông đã trở thành cánh tay đắc lực của Lê Lợi, thực hiện "mưu phục tâm công" giúp cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến toàn thắng vang dội. Ông hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Giặc ngoài đã dẹp yên, mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến nổi lên, Nguyễn Trãi bị nghi oan, bắt giam. Sau đó ông được thả ra nhưng không còn được tin dùng như trước. Thời thế ép buộc con người tận trung với nước, tậnhiếu với dân phải từ bỏ chốn quan trường về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1442, Nguyễn Trãi trở về giúp vua Lê Thánh Tông việc nước thì an oán Lệ Chi Viên đổ ập xuống gia đình ông. Bọn gian thần vu cho ông giết vua, khép tội "tru di tam tộc". Cuộc đời đã đóng sậptrước mắt con người tài hoa bạc mệnh như một sự thật phũ phàng đến nao lòng, là nỗi xót thương nghẹn ngào của bao con dân khổ cực dưới ách cùm trói thiếu đi một cánh tay che chở, bảo vệ trước dông tố cuộc đời.Sinh ra từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụihư vô. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi tưởng đã bị cuốn phăng khỏi guồng quay của thời gian, chuyến hành trình dài của lịch sử nhưng chính bởi hồn thơ văn chất chứa đã khẳng định tên tuổi, tạc linh hồn vô hình lên vóc dáng dân tộc, để lại cho đời những tiếng thơ bất hủ, vang dội
mà cũng không kém phần lắng đọng, tinh tế, bình dị như chính những rung động nhẹ nhàng trong trái tim Nguyễn Trãi:"Nhắc đến tên ông là thấy thơNhư một nguồn thiêng chẳng bến bờ".(Tế Hanh)Nguyễn Trãi -nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại. Ông coi thơ là nơi gửi gắm, truyền đạt con mắt sự đời tinh tế để công phá quân giặc; là miền đất mơ ước mà ở đó tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân thấm nhuần vào hành động, xuyên suốt, chủ đạo như nguồn năng lượng hội tụ phát sáng kì diệu:"Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngượcCó nhân, có trí, có anh hùng"(Quốc âm thi tập)Trong thơ Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" như một lời nguyền vang vọng, trường tồn với năm tháng: Yêu nước, thương dân -danh là danh tổ quốc -lợi là lợi tổ quốc. Sống để cống hiến, suốt đời quên mình vì dân vì nước, vì tư tưởng "nhân nghĩa". Rạo rực, hùng hồn, sắc bén, đây "Quân trung từ mệnh tập" -vang dội khí phách, tinh hoa, cội nguồn dân tộc đây, mãi là áng "Thiên cổ hùng văn" ấy là Bình Ngôđại cáo..."Quân trung từ mệnh tập" tuy chỉ là một tập hợp gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giao thiệp với triều đình nhà Minh của Nguyễn Trãi.... nhưng nó lại là tập văn chiến đấu "có sức mạnh bằng mười vạn quân" (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc sảo, biến hoá, nhất quán của mưu sư “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý Đôn). Mỗi bức thư là một khâu, một mắt xích quan trọng
trong cả cuộc luận chiến kéo dài giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý lẽ lúc thâm thuý, ý nhị,lúc biến hoá, sắc sảo đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước, thương dân đã tạo cho “sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông cũng trúng đích” (Nguyễn Huệ Chi). Nếu văn đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và vănhọc sáng rọi giữa Nam Quốc Sơn Hà với chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt hay Hịch tướng sĩ với chiến thắng chốg quân Nguyên lần thứ II thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự lặp lại một lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa một tác phẩm chính luận nào đạt tới, là áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại -một “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội ác của kẻ thù, là khúc tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền với chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc từ đây vững bền” ;lòng tự hào dân tộc sâu sắc:“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạo”.(Bình Ngô đại cáo)Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt huyết, lúc âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúcnghẹn ngào, tấm tức ... Nguyễn Trãi luôn ước vọng nhà nước phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh quê hương đất nước tươi đẹp hiện ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn:
“Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Giọng văn chính luận của Nguyễn Trãi đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối tượng, mục đích để có biện pháp khéo léo tạo nên kết cấu sức bén, nhất quán. Với tài năng, đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi đã làm và cống hiến cho dân tộc, ông xứng đáng là một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thươn dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân.” Tưtưởng nhân nghĩa ấy luôn thiết tha, thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu, bất an:“Bui một tấc lòng ưu ái cũChẳng nằm thức dậy nẻo canh ba.”(Bảo kính cảnh giới –1)“Bui một tấc lòng ưu ái cũĐêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”(Thuật hứng –5)Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác, nhưng khi lộ thiên nó lại càng lấp lánh hơn bởỉ tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân sáng ngời.Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng “Bình Ngô đại cáo” hay “Quân trug từ mệnh tập”.... chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau thời thế, biết yêu, biết sống đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lý tưởng cao cả nhưng Nguyễn Trãi xót xa và nghẹn ngào đau xót trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông thương khóc cho “dân đen” đang rên xiết dưới gót giày quân
Nguyễn Trãi còn dành cho thiên nhiên một địa vị cao sang trong thơ qua “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”. Đó là màu xanh của cỏ như “khói bến xuân tươi”, là bóng thông bên núi, là tiếngcuốc gọi hè, là vẻ kín đáo “Tình thư một bức phong còn kín” trong Cây chuối, là cành mai, dáng tùng, là sức sông trào dâng của hoa lựu đỏ ngoài hiên .... Tất cả những điều bình dị, dân dã ấy qua những rung động thẩm mĩ của Nguyễn Trãi đều đi vào thơ ca nhẹ nhàng như một mảnh tâm hồn. Thiên nhiên đã trở thành nơi ôm ấp, bao bọc con người có tâm hồn thanh cao, yêu đời ấy. Dù đi đến bất cứ nơi đâu, thiên nhiên đều trở thành một nguồn thơ bất tận “Túi thơ chứa hết mọi giang sơn” của người thi sĩ này. Nguyễn Trãisống để bầu bạn với thiên nhiên, để viết về tình cảm nhân văn giữa con người với con người như ngiã vua tôi, tình cha con sâu sắc:“Quân thân chưa báo lòng canh cánhTình phụ cơm trời áo cha”.Những vần thơ của Nguyễn Trãi dù viết về thiên nhiên hay tình cha con, tình bạn .... đều biết bao gần gũi. Chính hình ảnh con người trong thơ đã làm cho Nguyễn Trãi nổi bật rõ hơn vẻ đẹp nhân bản, nhân văn trong tâm hồn người anh hùng, nâng cao tầm vóc, vị thế của một con người thời đại.Xuất hiện ở nửa cuối thế kỉ XV,thiên tài văn học Nguyễn Trãi đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý -Trần, đồng thời mở đường cho giai đoạn phát triển mới. Bao trùm trong thơ Nguyễn Trãi là nguồn cảm hứng yêu nước và nhân đạo sâu sắc. Ông là một nhà văn chính luận xuất sắc, là nhà thơ có công khai sáng tiếng Việt, đem đến cho nền văn học thơ Đường luật viết bằng văn học chữ Nôm sáng tạo làm tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi -người anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà tư tưởng chính trị lớn sống mãi trong lòng dân tộc và thế hệ con cháu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp theo tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi để đối xử nhân đạo với những tên giặc. Bọn chúng đã gây ra, đem bom đạn giết hại dân ta, đàn áp đồng bàota, tàn phá dân tộc ta, gây bao nhiêu tang tóc đau thương trên mọi miền đất nước. Vậy mà khi bắt sống quân giặc, ta vẫn đối xử nhân đạo với chúng vào khách sạn Hintơn và sau ngày 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là bắt nguồn từ tư tưởng NguyễnTrãi? Ta tự hào vì dân tộc ta có một nhân cách lớn như Nguyễn Trãi. Cuộc đời, sự nghiệp ấy sẽ mãi mãi là tấm gương soi đường, chỉ lối cho những bước ta đi để xây dựng quê hương, đất nước. Thời gian sẽ không làm phai mờ đi chân dung danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi. Ta vẫn thấy ông ung dung thanh cao sống giữa cõi đời thanh bình ấy:“Đạp sóng mây, ôm bó củiNgồi bên suối, gác cần câu”.(Trần tình –5)Ta vững bước hướng về một tương lai tươi sáng; sẵn sàng, tự tin bước đi xây dựng quê hương khi biết đằng sau mình vẫn có những con người vĩ đại như thế soi đường, chỉ lối. Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam!
Xin hỏi văn thuyết minh về tác phẩm văn học có điểm gì khác với văn nghị luận về tác phẩm văn học và trong quá trình làm bài làm sao để thể hiện bài làm là văn thuyết minh chứ không lẫn sang văn nghị luận?
0 câu trả lời

Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về lòng thương người trong cuộc sống
Giúp mk vs các bạn ơi 😭😭
Được cập nhật 2 tháng 2 lúc 20:20 2 câu trả lời

A. Mở bài:
- Nói qua về tình thương có tầm quan trọng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta
- Tình thương là một tình cảm cần có trong mỗi chúng ta
B. Thân bài
- Giải thích:
– Tình thương: là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người, với vật – Hạnh phúc: là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
– Tình thương là hạnh phúc của con người: Tình thương khiến cho người ta luôn hướng về nhau để chia sẻ, thông cảm, đùm bọc lẫn nhau. Và như vậy con người có thể thỏa mãn ý nguyện, được hưởng niềm vui sướng, hạnh phúc mà tình thương mang lại.
- Phân tích – chứng minh:
* Các biểu hiện, ý nghĩa của tình thương:
Ý 1: Trong phạm vi gia đình:
– Cha mẹ yêu thương con cái, chấp nhận bao vất vả, cực nhọc, hi sinh bản thân để nuôi dạy con cái nên người. Con cái ngoan ngoãn, trưởng thành, cha mẹ coi đó là hạnh phúc nhất của đời mình.
– Trong cuộc đời có nhiều nỗi khổ, nhưng con cái không nên danh nên phận hoặc hư hỏng là nỗi đau lớn nhất của cha mẹ.
– Con cái biết nghe lời dạy bảo của cha mẹ, biết đem lại niềm vui cho cha mẹ, đó là hiếu thảo, là tình thương và hạnh phúc.
– Tình thương yêu, sự hòa thuận giữa anh em, giữa cha mẹ và con cái tạo nên sự bền vững của hạnh phúc gia đình.
* Dẫn chứng
Ý 2: Trong phạm vi xã hội:
– Tình thương chân thành là cơ sở của tình yêu đôi lứa.
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua”.
– Tình thương là truyền thống đạo lí: Thương người như thể thương thân; tạo nên sự gắn bó chặt chẽ trong quan hệ cộng đồng giai cấp, dân tộc.
* Dẫn chứng: Chương trình Vòng tay nhân ái, Trái tim cho em,…
– Tình thương mở rộng, nâng cao thành tình yêu nhân loại.
* Dẫn chứng: Thế giới và Việt Nam hướng về những nạn nhân của sóng thần và động đất ở Nhật Bản…
– Những tấm gương sáng trong lịch sử coi Tình thương là hạnh phúc của con người:
+ Vua Trần Nhân Tông trong một chuyến đi thăm quân sĩ đã cởi áo bào khoác cho một người lính giữa đêm đông lạnh giá.
+ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng vào sinh ra tử với tướng sĩ dưới quyền trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
+ Người thanh niên Nguyễn Tất Thành xuất phát từ lòng yêu nước thương dân trong tình cảnh nô lệ nên đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác luôn lấy tình yêu thương con người làm mục đích và hạnh phúc cao nhất của cuộc đời mình: “ Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta tự do, độc lập, dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Đánh giá – mở rộng
– Khẳng định: Đó là một quan niệm nhân sinh cao quí
– Phê phán lối sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình thương, không biết quan tâm, chia sẻ, đồng cảm và giúp đỡ người khác…
- Bài học:
*Nhận thức:
– Tình thương là lẽ sống cao cả của con người. Tình thương vượt lên trên mọi sự khác biệt giữa các dân tộc trên thế giới.
* Hành động: – Để tình thương thực sự trở thành hạnh phúc của con người, mỗi chúng ta phải vươn lên chống đói nghèo, áp bức bất công, chiến tranh phi nghĩa… để góp phần xây dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng…
C. Kết bài
-Tình thương là một tính cảm thiêng liên mà bất cứ ai cũng cần có
-Mỗi chúng ta cần phải học hỏi cũng như có những hành động giúp đỡ những người xung quanh có hoàn cảnh khó khăn để cuộc sống trở lên tốt đẹp hơn.

MB: Mỗi chúng ta khi được sinh ra trong thế giới này đã là một niềm hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta không tồn tại như những cá thể độc lập mà hạnh phúc đích thực chỉ nảy sinh khi chúng ta được tắm trong suối nguồn của tình yêu thương.Vì vậy lòng yêu thương con người là một trong những tố chất làm nên ý nghĩa cuộc sống cuả mỗi chúng ta.
TB: giải thích yêu thương là gì? nêu ra các luận điểm, luận cứ để chứng minh cho luận điểm, so sánh người có lòng yêu thương và người ko có lòng yêu thương,.....(triển khai ý ra)
KB: Với những ý nghĩa trên, lòng yêu thương cần phải được nhân rộng và trân quý, ca ngợi trong cuộc sống hôm nay. Mỗi chúng ta cần phải sống có lòng yêu thương với tất cả mọi người, sẵn sàng chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ người khác. Song song đó, chúng ta cũng cần phải lên án lối sống thiếu tình yêu thương, ích kỉ, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, và thẳng thắn phê phán những kẻ lợi dụng tình thương để thể hiện những ý đồ đen tối, để tự đánh bóng tên tuổi mình
THUYẾT MINH VỀ VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI CHIẾN SĨ VÀ NGHỆ SĨ TRONG THƠ CỦA NGUYỄN TRÃI
E ĐANG CẦN GẤP MONG MN GIÚP Ạ
1 câu trả lời

Trong nền văn học trung đại, đặc biệt dưới thời vua Lý, Trần, Lê đã xuất hiện không ít các tác giả nổi tiếng, và gắn liền với tên tuổi của họ là những tác phẩm văn học bất hủ như: Lý Thường Kiệt với “Nam quốc sơn hà”, Trần Quang Khải với “Tụng giá hoànn kinh sư”. Và, có lẽ, trong số các tác giả đó, chưa có ai phải chịu một cái chết oan uổng như Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi không chỉ được mọi người biết đến với tài năng cùng nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại, lĩnh vực mà còn được mọi người tìm hiểu về một cuộc đời sóng gió, đầy trắc trở.
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại, sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long, một nho sinh nhà nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh thời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình mà cả bên nội cũng như bên ngoại, đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hoá, văn học. Từ nhỏ, Nguyễn Trãi thông minh, hiếu học, hiểu rõ đạo lý làm người… Nhưng, ông cũng phải chịu những mất mát đau thương: tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó, ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi lên 10 tuổi. Năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cả 2 cha con cùng làm quan dưới triều nhà Hồ. Về sau, khi nhà Hồ sụp đổ, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, ông xin đi theo cùng nhưng đến cửa ải, Nguyễn Phi Khanh lại khuyên ông nên quay trở về trả nợ nước, báo thù nhà, và trong cảnh biệt li đó, cha ông đã làm nên bài thơ “Hai chữ nước nhà” đầy cảm động. Về phần ông, vâng lời cha, ông quay trở về đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn, giúp Lê Lợi đánh đuổi giăc Minh, thống nhất đất nước. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình ngô sách: “hiến mưu trước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”, ông thuyết phục Lê Lợi dùng nhân nghĩa đối với tướng sĩ, dùng công tâm để lấy thành”. Ông đề ra 3 phương sách: công tâm là thượng sách, vừa công thành vừa công tâm là trung sách, công thành là hạ sách (3 phương sách này phù hợp với 3 đường lối trị nước là đế đạo, vuơng đạo và bá đạo).
Bình Định Vương Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phụng Đại Phu Thừa chỉ học sĩ Hàn Lâm Viện. Nguyễn Trãi đưa ra nhiều chiến lược, sách lược cho Lê Lợi. Nhờ có sự đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi mà lập nên được nhiều chiến thắng vẻ vang cho dân tộc.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự đại tài như chúng ta biết mà ông còn là nhà văn chính luận kiệt xuất với tác phẩm”bình ngô đại cáo” bất hủ. Tiếc thay, với những tài năng như vậy, đáng lẽ, Nguyễn Trãi được vua Lê trọng dụng và hoàn thành những hoài bão của mình, nhưng càng về sau, ông không được vua Lê trọng dụng nữa. Đau buồn trước cảnh ấy, Nguyễn Trãi đã cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn và dường như số phận trớ trêu khéo dùa cợt ông lần nữa, gia đình ông bị tru di tam tộc vì tội hại vua_một nỗi oan lớn của cả thời đại lúc bấy giờ. Thế nhưng, có lẽ trời đất không muốn một người tài đức như ông phải chịu một cái chết oan uổng đén vậy, nên đến thời vua Lê Thánh Tông, nỗi oan của ông được rửa sạch và được vua tặng câu “Úc Trai lòng sáng tựa sao khuê”
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự, nhà văn chính luận mà ông còn nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, để lại nhiều tác phẩm như: dư địa chí, Lam Sơn thực lục và ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho nền văn học chữ Nôm nước nhà qua tác phẩm “quân trung từ mệnh tập”, ngoài ra còn có tác phẩm “Côn Sơn ca” in trong tập “Ức Trai thi tập”
Qua những tác phẩm còn sót lại đến nay của Nguyễn Trãi, ta thấy thơ văn ông thấm đậm tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Tiêu biểu như “Quân trung từ mệnh tập” , là tập văn chiến có sức mạnh của 10 vạn quân. Sức mạnh ấy có được từ sự kết hợp tuyệt diệu giữa tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước và nghệ thuật viết văn luận chiến bậc thầy. “Bình Ngô đại cáo” là áng văn yêu nước lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về độc lập chủ quyền của dân tộc, bản cáo trạng tội ác kẻ thù, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và còn là sự hoà quyện giữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa với tư tưởng yêu nước. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi rất phong phú, đặc biệt đối với tình yêu quê hương gia đình. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên quê hương. Bắt đầu từ những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu nhưng lại chan chứa tình yêu thương: bè rau muống, lảnh mùng tơi, cây chuối, cây đa… đều trở thành vần điệu trong thơ Nguyễn Trãi, tạo nên những rung động tinh tế trong lòng người. Ông nói một cách trang trọng mà thật vui tươi, chân chất: “ao cạn vớt bèo cấy muống; trì thanh phát cỏ ương sen”, ông phát hiện ra một vẻ đẹp rất bất ngờ: đêm trăng gánh nước thì gánh luôn cả trăng đem về; bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại; thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc: “tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi”. Ông coi thiên nhiên như một người ban thân của mình, có lúc, ông như hoà mình vào thiên nhiên đến mức tưởng như dòng suối, tảng đá phủ rêu, tán trúc như hoà nhập với ông làm một.
Tiếp theo là niềm gắn bó tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm, ông phải lẩn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầu đêm thu, xa nhà bên ngọn đèn đêm khuya, ông day dứt như trong bài “đêm thu đất khách” ông tâm sự: Đêm khuya, bên ngon đèn leo lét, hồn mộng cứ vẩn vơ mãi nơi đất khách. Thanh minh đến theo tục, con cháu phải về thăm mồ mả ông bà, sửa sang bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm nay, ông không về được, ông chỉ não lòng: “thân mình xa ngàn dặm, mồ mả ông bà ở quê sao không giẫy cỏ thắp hương; 10 năm đã qua, những người ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai; đành mượn tạm chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê” (thanh minh_dịch nghĩa)
Chính vì có tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người nên Nguyễn Trãi sống một đời trong sạch, một lòng vì dân, vì nước. Khi trở về nông thôn, ông yên lòng và tự hào, ông coi cày cấy là một niềm vui: “một cày một cuốc thú nhà quê”. Những người dân lao động chân lấm tay bùn đáng được biết ơn: “ăn lộc, đền ơn kẻ cấy cày”. Cuộc sống Nguyễn Trãi giản dị, nghèo mà thanh, ông ca ngợi hình dáng, tính chất của tùng, chúc, mai, 3 cây không chịu khuất phục trước gía lạnh của mùa đông, giống như ông, một người luôn giữ tấm lòng trong sạch, một tấm “lòng thơm”. Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân, nó suốt đời sôi nổi, nó dự trên chân lí của tư tưỏng nhân nghĩa_một tư tưỏng cao đẹp xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa chính là trừ bạo, yên dân.
Nguyễn Trãi quả là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông chính là một vị anh hùng dân tộc, một nhà tư tưỏng, nhà thơ, nhà văn hoá lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như vua Lê Thánh Tông đã ca ngợi “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.
Lazi.vn


Mở bài:
- Giới thiệu và nêu giá trị của sách nói chung với cuộc sông con người.
- Giới thiệu về SGK và tình cảm của em với cuốn SGK Ngữ văn 8, tập một.
Thản bài:
- Giới thiệu xuất xứ của sách:
+ SGK Ngữ văn 8, tập một được ra đời từ Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
+ Các tác giả cuốn sách là những giáo sư, nhà nghiên cứu đầu ngành về văn chương của Việt Nam.
- Thuyết minh, giới thiệu về hình thức bề ngoài của sách:
+ Cuốn sách có hình thức đơn giản, hài hòa, khổ 17x24 rất phù hợp và thuận tiện cho học sinh khi sử dụng.
+ Bìa một của cuốn sách có tông màu nổi bật là màu lòng tôm đậm pha hồng rất bắt mắt. Trên cùng là dòng chữ “Bộ Giáo dục và Đào tạo” được in trang trọng. Dưới đó là tên cuốn sách được viết theo kiểu chữ hoa mềm mại: “Ngữ văn” màu xanh da trời. Số 8 màu trắng nhã nhặn nhưng cũng rất dễ nhìn, dễ nhận ra. Nổi bật trên bìa sách là một khóm hoa màu vàng nhạt xinh xắn.
+ Bìa bốn của cuốn sách có biểu tượng vương miện kim cương chất lượng quốc tê quen thuộc của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Danh sách bộ SGK lớp 8 cũng được in rõ ràng, đầy đủ. Cuối trang là mã vạch và giá tiền.
- Giới thiệu bao quát bố cục của sách:
+ SGK Ngữ văn 8, tập một có 17 bài, tương ứng với 17 tuần.
+ Mỗi bài lại gồm 4 bài nhỏ trong đó thường là 2 văn bản, 1 bài Tiếng Việt và 1 bài Tập làm văn.
+ Quyển sách là sự phát triển kế tiếp SGK lớp 6 và lớp 7.
- Giới thiệu nội dung, giá trị của cuốn sách:
+ Ở phần Văn học, học sinh sẽ được làm quen, tiếp xúc, tìm hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam từ đầu thê kỉ XIX đến 1945. Đồng thời, sách còn giới thiệu phần văn học nước ngoài với những tác phẩm đặc sắc của Mĩ, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Liên bang Nga.
+ Phần Tiếng Việt gồm cả từ ngữ và ngữ pháp được sách cung cấp rất dễ hiểu, khoa học, ngắn gọn, vừa cung cấp tri thức, vừa giúp học sinh luyện tập.
+ Ớ phần Tập làm văn, ngoài việc tiếp tục làm văn tự sự, học sinh còn được học thêm một thể loại rất mới là văn thuyết minh.
- Nêu cách sử dụng, bảo quản sách:
+ Để cuốn sách có giá trị sử dụng lâu bền, chúng ta cần giữ gìn cẩn thận, không quăng quật, không vo tròn, không gập đôi cuốn sách.
+ Hơn thế nữa, chúng ta nên mặc thêm cho cuôn sách một chiếc áo ni lông vừa bền vừa đẹp để sách sạch hơn, an toàn hơn.
Kết bài:
Khẳng định giá trị, ý nghĩa lớn lao của quyển sách đối với học trò.
1. Thuyết minh về áo dài
2. Thuyết minh về danh lam thắng cảnh
Được cập nhật 21 tháng 1 lúc 22:35 5 câu trả lời


1)
I/Mở bài
- Nêu lên đối tượng: Chiếc áo dài VN
VD: Trên thê giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình. Từ xưa đến nay, chiếc áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
II/Thân Bài
1. Nguồn gốc, xuất xứ
+ Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+ Bắt nguồn từ áo tứ thân Trung Quốc
+ Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian.....chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử
- Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh, hơi giống áo từ thân, sau đó qua lao động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chỉnh sửa để phù hợp với đặc thù lao động -> áo tứ thân và ngũ thân.
- Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài Việt Nam là chúa Nguyễn Phúc Khoát. Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa....==> áo dài đã có từ rất lâu.
2. Hiện tại
+ Tuy đã xuất hiện rất nhiều những mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lễ phục của các bà các cô mặc trong các dịp lễ đặc biệt..
+ Đã được tổ chức Unesco công nhận là một di sản Văn Hoá phi vật thể, là biểu tượng của người phu nữ Việt Nam.
3. Hình dáng
- Cấu tạo
* Áo dài từ cổ xuống đến chân
* Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thích của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.
* Khuy áo thường dùng bằng khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.
* Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá chân.
* Áo được may bằng vải một màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn cho áo thêm rực rỡ.
* Thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật những đường cong gợi cảm của người phụ nữ.
* Tay áo dài ko có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo --> cổ tay.
* Tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.
* Áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng bằng lụa, satanh, phi bóng....với trang phục đó, người phụ nữ sẽ trở nên đài các, quý phái hơn.
- Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo dài khi mặc vào ôm sát form người.
- Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng Nhung, Mỹ Hào, ....., đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng…
- Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng mát. Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm…
- Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh nhạt...Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thường các bà, các chị chọn tiết dê đỏ thẫm…
4. Áo dài trong mắt người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế
- Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu.…
- Phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài
5. Tương lai của tà áo dài
III. Kết bài
Cảm nghĩ về tà áo dài, ...

2.Danh lam thắng cảnh là một thuật ngữ được sử dụng trong du lịch hiện đại, biểu thị hoặc là cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, hoặc là các công trình văn hoá, hoặc có mặt cả hai. Đó là các địa điểm tham quan trong thành phố hoặc trong tự nhiên. Theo nghĩa này, tham quan là thuật ngữ được sử dụng để mô tả một chuyến đi du lịch, hoặc hành trình phục vụ mục đích tham quan nói chung.
...
Dưới đây là những câu hỏi có bài toán hay do Hoc24 lựa chọn.
Building.
Bảng xếp hạng môn Ngữ văn
Thảo Phương2265GP
Linh Phương1559GP
Trần Thọ Đạt978GP
Trần Thị Hà My735GP
Nguyễn Trần Thành Đạt683GP
Mai Nguyễn615GP
Đỗ Hương Giang524GP
Phương Thảo466GP
Nguyễn Thị Hồng Nhung430GP
trần thị diệu linh425GP
Thảo Phương232GP
Trần Thị Hà My231GP
Trần Thọ Đạt60GP
Huỳnh lê thảo vy51GP
Hoàng Minh Nguyệt36GP
trần thị diệu linh33GP
Anh Qua27GP
Nguyễn Minh Huyền21GP
Liana19GP
Hùng Nguyễn19GP
Câu 1: Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
Câu 2: tác hại của thói a dua được nêu trong đoạn trích:
- Làm con người đánh mất mình nhanh chóng và ngọt ngào nhất: tức khắc đánh rơi mất mình cùng lòng tự trọng, ý thức tự tôn.
- Làm con người trở nên thiếu tự tin , thiếu bản lĩnh , từ đó làm cho con người bị lệ thuộc thao túng bởi kẻ khác kẻ khác ( kẻ mạnh - kẻ nổi bật ) mà không còn biết tin tưởng vào bản thân mình , nghe theo trào lưu a dua một cách mù quáng.
=> Con người sẽ không biết tự suy sét đúng- sai , phải- trái ; xem kẻ mạnh là chân lí , là đúng , là phải ; trở nên mù quáng , yếu kém và không biết tự rèn luyện và học hỏi , trau dồi bản thân.
Câu 3:
Tác giả nói rằng thói a dua khiến cho con người " mất mà đinh ninh là mình được là bởi nhiều lí do. Thứ nhất , đó là do thời đại. Theo đà phát triển của xã hội, con người có nhiều thuận lợi tốt đẹp hơn nhưng bên cạnh cái tốt đẹp ấy là một hệ luỵ không hề nhỏ mà thành phần chịu ảnh hưởng tiêu cực nhất lại đa phần là thế hệ trẻ. Thứ hai , người trẻ sử dụng nhiều công cụ khoa học , tin học phát triển như mạng xã hội , internet... với nhiều mục đích khác nhau. Và ở đó , con người tiếp xúc với nhiều thói hư tật xấu hơn là cái tốt. Chính vì vậy nên đôi khi họ bị kéo vàocái xấu một cách mù quáng mà không hay biết . Mà thực trạng đó được gọi là a dua. Từ đó , con người dần đánh mất chính bản thân , lý trí tỉnh táo một cách nhanh chóng và cả lòng tự trọng , ý thức tự tôn của chính mình. Chính vì vậy , thói a dua khiến cho người mắc phải "mất mà đinh ninh là mình được".
Câu 4:
A dua , xét đến cùng là căn bệnh của kẻ yếu. Bởi con người trơi sinh không ai không có lòng tự trọng, có cái tôi của riêng mình chỉ là bản thân người đó có đủ tự tin , bản lĩnh để bảo vệ ý kiến và quan điểm của mình trước cái chung hay không .Người có đủ can đảm , tự tin để làm được điều đó tức là kẻ mạnh và những "kẻ yếu" sẽ không đủ tự tin . Những kẻ đó sẽ chỉ biết hùa theo , a dua theo kẻ mạnh hơn bất kể đúng sai , ăn theo như thần tượng. Đó là căn bệnh của kẻ yếu , những kẻ mang phẩm chất và năng lực yếu kém ; chỉ biết lệ thuộc mù quáng vào kẻ mạnh mà không có chính kiến , lòng tự trọng và ý thức tự tôn của chính mình.
Ý kiến riêng của mk , bạn thao khảo nhé !