Văn mẫu lớp 9

Thanh Huyền
Xem chi tiết
Linh Phương
11 tháng 12 2016 lúc 15:21

bài j bạn ?

Bình luận (0)
Dương Thu Hiền
11 tháng 12 2016 lúc 17:48

Có j đâu mà giúp được chứ ! hiu

Bình luận (0)
Lap Tat
Xem chi tiết
Linh Phương
1 tháng 12 2016 lúc 12:25
 

Ngày nay, loài người ngày càng phát triển để không ngừng nâng cao cuộc sống để ai ai cũng có thể sống trong cảnh cơm no áo ấm. Tuy vậy, vẫn có những mảnh đời bất hạnh, nhất là những đứa trẻ đang phải sống trong cảnh thiếu cơ cực. Đây cũng là một vấn đề đang nhức nhối trong xã hội. Chính vì thế, quyền trẻ em ra đời để bảo vệ những mảnh đời ấy.

Vậy quyền trẻ em là gi? quyền trẻ em là những quyền được nhà nước công nhận và bảo vệ để chăm sóc và bảo trợ trể em. Việc ra đời quyền trẻ em cũng là một cách để thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với chững chủ nhân tương lai của đất nước. Ai cũng biết rằng, trẻ em là tuổi ăn học, vui chơi, tuổi lớn, tuổi của những hoài bão đẹp và vẫn còn quá mỏng manh trước những cám dỗ, cạm bẫy của xã hội. Thế nhưng, ở đâu đó, chúng ta lại phải thấy cảnh những đứa trẻ gầy gò phải ăn xin, phải làm việc để mưu sinh sống qua ngày mà đáng lí ra, chúng phải đang cắp sách tới trường, chạy nhảy cùng chúng bạn. Có vậy mới thấy sự quan trộng của quyền trẻ em như thế nào?

Tuy nhiên, trong khi mọi con tim, mọi nỗ lực hướng về trẻ em nhằm làm cho cuộc sống của những đứa trẻ ấy bớt cực nhọc thì lại có những kẻ lợi dụng lòng tốt của người khác đối trẻ em như vụ việc cậu bé Đức ba tuổi bị cậu ruột bắt đi ăn xin, ngoài ra còn có những kẻ bạo hành trẻ em, bắt cóc trẻ em để mua bán, bắt chúng làm những công việc nặng nhọc. Ấy mới thấy, các bộ luật về quyền trẻ em cần phải nghiêm khắc hơn để trừng trị những kẻ ấy.

Hãy nhìn lại những hình ảnh, những mảnh đời bất hạnh của trẻ em mà hành động vì một thế giới mai sau tươi sáng.Qua đây, em cũng tự hứa sẽ cố gắn học thật tốt và luôn cố gắng giúp những đứa trẻ bất hạnh trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

Bình luận (1)
Dương Phương Trà
5 tháng 12 2017 lúc 22:49

Bài làm

Trẻ em là tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Trẻ em có quyền được sống, quyền được bảo vệ và quyền được phát triển.Nhưng thực tế cuộc sống tuổi ấu thơ của trẻ em lại không hoàn toàn như vậy.

Trẻ em có quyền được sống và được đáp ứng các nhu cầu cơ bản để tồn tại như được nuôi dưỡng, được chăm sóc sức khoẻ... Nhưng trong thực tế, theo thế giới Tuyên bố về sự sống còn của trẻ em..., hằng ngày có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng thảm hoạ của đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp... Hơn 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế giới không có những điều kiện thiết ỵếu để tồn tại như thiếu thực phẩm, nước uống, thiếu thuốc chữa bệnh... ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệtnhững nước kém phát triển nhất ở châu Phi, trẻ em đang phải chịu tác động nặng nề của nợ nước ngoài, của tình hình kinh tế không giữ được mức độ tăng trường đều đặn hoặc không có khả năng tăng trưởng.Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng, bệnh tật, kể cả hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV, AIDS) hoặc do thiếu nước sạch, thiêu vệ sinh và do tác động của vấn đề ma tuý. Tỉ lệ tử vong của trẻ em nội chung, trẻ sơ sinh nói riêng ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, theo Tuyên bố thế giới... cao đến mức không thể chấp nhận được. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền Trẻ em. Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng rất nhiều trong việc xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo quyền được sống cho trẻ em. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn và miền núi khó khăn vẫn còn rất nhiều trẻ em thiếu ăn, suy dinh dưỡng, không được chăm sóc về mặt y tế.

Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử, bị bỏ rơi, bị bóc lột và xâm hại. Nhựng trong thực tế, cũng theo Tuyên bố thế giới về quyền được bảo vệ của trẻ em, hằng ngày có vô số trẻ em khắp nơi trên thế giới bị phó mặc cho những hiểm hoạ khôn lường. Chiến tranh vẫn nổ ra liên miên trên khắp thế giới. Cuộc chiến ở Cô-sô-vô, Nam Tư; cuộc chiến tranh của Mĩ và Anh ở I-rắc; cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan; các cuộc xung đột ở Trung Đông; chủ nghĩa khủng bố hoành hành khắp nơi... đã biến trẻ em thành nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, thậm chí, ở một số nước châu Phi, người ta tuyển mộ cả trẻ em vào quân đội, tay lăm lăm súng ống giáp mặt với giết chóc.... Bên cạnh đó, hàng triệu trẻ em là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, chế độ A-pác-thai, nạn khủng bố, bắt giữ con tin... mà gần đây nhất là vụ khủng bố đẫm máu ở một trường học nước Nga (Bes-lan) làm hàng trăm trẻ em bị giết, hàng trăm trẻ em sống sót trong nỗi kinh hoàng khôn tả...Cũng do chiến tranh và tình hình chính trị phức tạp, nhiều trẻ em trở thành người tị nạn, phải từ bỏ gia đình sống tha hương để trốn tránh nỗi hiểm nguy. Có nhiều trẻ em tàn tật đã trở thành nạn nhân của sự lãng quên, ruồng bỏ, hoặc bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc lột.Ở Việt Nam, đây đó, chúng ta vẫn có thể chứng kiến cảnh trẻ em bị đánh đập, xâm hại, bị lôi kéo vào con đường nghiện hút, bị bắt buộc làm việc nặng quá sức, bơ vơ không ai chăm sóc do cha mẹ li hôn...

Trẻ em có quyền được đáp ứng các nhu cầu cho sự phát triển một cách toàn diện như được học tập, được vui chơi giải trí, được tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao... Nhưng trong thực tế hiện nay, có hơn 100 triệu trẻ em không được đến trường hoặc chưa trải qua giáo dục cơ sở.

Thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay là một thách thức lớn đối với cộng đồng quốc tế, là mối quan tâm sâu sắc của lương tâm loài người. Các quyền của trẻ em cần phải được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ, có trách nhiệm. Mỗi học sinh chúng ta hãy bằng khả năng và hành động thực tiễn của mình, phát huy tinh thần tương ái tương trợ, yêu thương giúp đỡ, nhường cơm xẻ áo cho những bạn nhỏ gặp hoàn cảnh khó khăn. Đó cũng là một hình thức hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền lợi của trẻ em.

Bình luận (2)
Đỗ Thị Nhung
2 tháng 6 2018 lúc 19:55

hì hay đó

Bình luận (0)
Đỗ Minh Nguyệt
Xem chi tiết
Đỗ Minh Nguyệt
20 tháng 11 2016 lúc 13:16

câu 4 viết thành 1 đoạn văn từ 5 đến 7 câu

 

Bình luận (0)
Phạm Thanh Phong
Xem chi tiết
Lê Yến Nhi
11 tháng 11 2016 lúc 13:25

Từ xưa đến nay, ông cha ta vẫn luôn căn dặn thế hệ mai sau cần phải “uống nước nhớ nguôn”, phải luôn ghi nhớ công lao của những người đã cho ta cuộc sống của ngày hôm nay. Bởi vậy, lòng biết ơn luôn là thái độ sống cần phải nâng niu và trân trọng.

Trong xã hội ngày nay, lòng biết ơn là truyền thống tốt đẹp từ đời xưa để lại. Mỗi người, mỗi cá nhân cần phải nhận thức được điều này để cùng nhau xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Lòng biết hơn hay “uống nước nhớ nguồn” được hiểu theo nghĩa cả nghĩa đen và nghĩa bóng. “Uống nước” là hành động hằng ngày chúng ta vẫn làm đều đặn, khi chúng ta uống nước, nâng niu trên tay tài nguyên thiên nhiên quý giá thì chúng ta cần phải nhớ rằng nguồn gốc của nó từ đâu mà có, ai đã mang đến cho chúng ta uống. Còn theo hàm ý sâu xa hơn thì uống nước nhớ nguồn là nói lên lòng biết ơn, nhớ về cội nguồn của mình với tấm lòng thành kính, thiêng liêng nhất. Mỗi người chúng ta sinh ra đều có nguồn gốc, không ai tự nhiên mà sinh ra. Mỗi ngày chúng ta trưởng thành và khôn lớn, công lao dưỡng dục, sinh thành ấy rất vĩ đại. Cần phải nghĩ về họ, nghĩ về quá khứ và những gì đã qua để thấy được những nhọc nhằn vất cả mà họ đã trải qua để đổi lấy sự yên bình cho chúng ta hôm nay.

Lòng biết ơn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng giữa người với người. Lòng biết ơn không chỉ là nói suông, cần thể hiện bằng hành động thì nó mới thực sự ý nghĩa.

Ngày nay, lòng biết ơn được biểu hiện trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh. Đâu đâu chúng ta cũng thấy được lòng biết ơn luôn hiển hiện khắp nơi. Là điều mà mỗi người đều có thể nhận thức được là cần làm, cần ghi nhớ.

Hằng ngày chúng ta bưng bát cơm trắng, dẻo thơm để ăn. Chúng ta có biết rằng để làm ra hạt cơm thơm lừng, trắng tinh ấy người nông dân đã đổ ra biết bao nhiêu công sức, mồ hôi, nước mắt. Nhọc nhằn một nắng hai sương, lo lắng vụ mùa thất bát là những điều mà không phải ai cũng thấy và cảm nhận được. Nói về lòng biết ơn những người nông dân thì ông cha ta có câu:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Để có một xã hội thái bình thịnh vượng như ngày hôm nay, ông cha ta đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu và nước mặt. Bao nhiêu người đã ngã xuống, bao nhiêu người còn ở lại nhưng thân thể không được lành lặn nữa. Họ – những con người đánh đổi cả tuổi trẻ, đánh đổi cả một người vì sự nghiệp thống nhất đất nước. Hằng năm vẫn có ngày lễ kỉ niệm các anh hùng thương binh liệt lỹ 27-7 với mục đích nhớ lại, biết ơn những gì mà họ đã mang lại cho chúng ta hôm nay.

Như vậy lòng biết ơn luôn hiển diện xung quanh cuộc sống của chúng ta, chỉ là chúng ta không tinh tế để nhận ra. Ai cũng có một cội nguồn để nhớ về để nâng niu và trân trọng.

Nhưng lòng biết ơn không phải ai cũng có thể làm được. Có rất nhiều người đã chà đạp lên thành quả của xã hội, không coi trọng những gì mình đang có, điều đó đồng nghĩa với việc không coi trọng thế hệ đi trước đã dựng xây và cống hiến. Ý thức ấy sẽ khiến cho họ càng ngày càng không biết nâng niu và trân trọng cuộc sống.

Đối với thế hệ trẻ này nay thì rèn luyện, bồi đắp lòng biết ơn là điều cần thiết để không quên cội nguồn, nhắc nhở bản thân trân trọng thành quả của quá khứ. Lòng biết ơn còn bồi đắp thêm lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Cho một tick nếu thấy hay và theo dõi nếu thấy cần nha bạn ♥~ MDia ☺☻☺

Bình luận (0)
Lê Phương Anh
12 tháng 11 2016 lúc 20:24

Mỗi người có mặt trên trái đất này đều có một cội nguồn. Ông cha ta xưa có câu: "Uống nước nhớ nguồn" và đến tận bây giờ câu tục ngữ ấy vẫn luôn vang vọng. Vậy thế nào là "uống nước nhớ nguồn"?

Câu tục ngữ thật ngắn gọn nhưng hàm ý thật sâu xa. "Uống nước" là điều chúng ta làm mỗi ngày, nhưng hai chữ này bao gồm nhiều ý nghĩa khác nữa. "Uống nước" tượng trưng cho người hưởng thụ thành quả, "nhớ" nói đến một thái độ, một tấm lòng biết ơn, "nguồn" là nguồn cội, cội nguồn của tất cả những thành quả mà con người được hưởng, "nhớ nguồn" là nhắc nhở những người hưởng thụ phải biết tri ân, giữ gìn, phát huy những thành quả của người làm ra chúng. "Uống nước nhớ nguồn” có thể hiểu theo hai nghĩa đen: đây có thể là lời khuyên, khi nào uống nước thì phải nhớ nguồn, cũng là lời của ta tự nhủ mình rằng: uống những giọt nước này ta không thể quên từ đâu ta có nước để uống.Vậy "uống nước nhớ nguồn" thể hiện truyền thống đạo lí của con người Việt Nam rằng cần phải biết ơn, trân trọng những người đã làm ra thành quả cho ta hưởng đến ngày hôm nay.

Thật vậy, mọi sự vật đều có nguồn gốc của cải, vật chất, tinh thần đó chính là công sức do con người làm ra. Như việc bạn thưởng thức một chén cơm, bạn cảm thấy vị ngọt, nhưng với tôi chúng thật mặn, mặn vì những giọt mồ hôi mặn vì những ngày dầm mưa dãi nắng, mặn vì họ đã bỏ biết bao công sức để làm ra những hạt gạo ngày hôm nay. Bạn có thấy không sự hi sinh xương máu của các vị anh hùng dân tộc, các chiến sĩ yêu nước vì sắc áo của dân tộc để rồi xây dựng đất nước giàu đẹp phát triển đến ngày hôm nay, tạo cho ta một tinh thần vững mạnh. Việc xây dựng đền đài, lăng tẩm không chỉ để nhớ ơn những việc mà họ đã làm cho Tổ quốc mà đó còn là sự nhắc nhở ta không bao giờ được quên nguồn gốc của mình. Nguồn gốc, nguồn cội không phải dễ có, ta cần phải biết trân trọng. Nhớ về nguồn cội thôi chưa đủ, ta cần phải biết ơn vì đó là nét đẹp đạo lí làm người của con người Việt Nam. Người Việt chúng ta luôn là những người sống với lòng biết ơn, không bao giờ quên tổ tiên, nòi giống, biết bảo vệ quê hương Tổ quốc.

 

" Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba

Dù ai buôn bán gần xa

Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba thì về..."

Bốn câu lục bát mà mỗi người dân trên đất nước Việt Nam này không bao giờ quên vì đó là những lời nhắc nhở con cháu "Dòng máu lạc hồng" luôn nhớ về cội nguồn của mình. Điều đó đã góp phần tạo nên nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc, tạo nên những giá trị tinh thần cao đẹp mà trong đạo lý "uống nước nhớ nguồn" nổi lên như một truyền thống tiêu biểu và tôn vinh những người đã sinh ra mình, những người có công với làng xóm, với quê hương, đất nước. Không những thế người Việt Nam không bao giờ quên những người đã dạy dỗ mình. Nhờ có cha mẹ, ta đã được nuôi lớn tới ngày hôm nay nhờ có thầy cô mà ta có đủ vốn kiến thức để vững tin bước vào cánh cửa tương: lai tốt đẹp. Tất cả những điều đó là biểu hiện của một con người luôn "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng."

Sâu kín trong tâm hồn, chúng ta không phải là những người vô ơn. Tuy nhiên, vì đời sống máy móc, bận rộn; vì những lo lắng trong cuộc sống; có khi vì mệt mỏi, chúng ta đã không còn thì giờ suy nghĩ đến những thành quả mà họ đã tạo nên. Đó là điều mà ta cần khắc phục vì không khéo, nguồn cội sẽ đi vào quên lãng khi con người chỉ biết cuốn theo thời gian mà không ngừng nghỉ. Song, ta cần phê phán những kẻ "ăn cháo đá bát", "có mới nới cũ",đó là loại người lừa thầy phản bạn, bất hiếu, là một kẻ lười học, phá hoại tài sản của đất nước như việc quên đi nguồn cội mình, coi thường nguồn gốc của mình thì đó là việc đáng trách, ta cần phải loại bỏ.

Qua câu tục ngữ trên, ta càng thầy được đạo lí tốt đẹp của con người Việt Nam. Suy nghĩ đến bốn chữ ngắn ngủi trong câu tục ngữ, "Uống nước nhớ nguồn," tôi thấy những chữ này dạy ta nhũng bài học vô cùng quý giá trong tinh thần biết ơn. Ta cần biết trân trọng, kính trên nhường dưới, sống có tình có nghĩa. Tôi và bạn hãy cố gắng học tốt để góp phần cống hiến làm nên những thành quả cho lớp người đi sau



 

Bình luận (0)
Linh Phương
13 tháng 11 2016 lúc 20:58

Đất nước chúng ta trải qua hơn bốn nghìn năm đô hộ giặc tàu, tám mươi năm đô hộ giặc tây, gánh chịu bao nhiều thăng trầm. Nhưng ngày hôm nay, chúng ta đã được thống nhất, được hòa bình, sống trong yên ấm, nhà nhà hạnh phúc. Tất cả đều nhờ vào sự hi sinh và đổ máu của biết bao anh hùng. Do đó, hãy ghi nhớ công ơn của họ, hãy nhìn về quá khứ để hiểu được thành quả ngày hôm nay. Chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy truyền thống cáo đẹp của dân tộc, một nét văn hóa của Việt Nam đó chính là uống nước nhớ nguồn, đó là ăn quả phải nhớ kẻ trông cây.

Những câu tục ngữ của ông cha xưa để lại cho chúng ta luôn là những lời dạy bảo, nhắc nhở vô cùng đúng và hữu ích. Câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” chính là khuyên ta phải luôn có long biết ơn và tôn trọng với những người đã hi sinh vì dân tộc, đối với ông bà, tổ tiền với công lao của cha mẹ ta, với những người đã giúp đỡ chúng ta trong cuộc sống. Đây là đạo lý cần được truyền từ đời này sang đời khác, và cần được phát huy gìn giữ

Mỗi người đều có những cách biểu hiện long biết ơn, thành kính theo những cách riêng, có thể ngay trong lời nói, hay ở cử chỉ, hành động, hay chỉ là ánh mắt của mình. Chỉ cần bạn có tâm thì ở bất kỳ biểu hiện nào đều đáng quý, đáng trân trọng.

Nhìn lại trang lịch sử đất nước mình ta càng thấy khâm phục con người xưa hơn. Bốn nghìn năm phương Bắc đô hộ, nhằm biến nước ta thành một tỉnh của chúng, chúng mang chữ viết, mang phong tục tập quán, mang nền giáo dục nho học của chúng vào đất nước ta, rồi lại đến bọn thực dân Pháp, bọn đế quốc Mỹ, phát xịt Nhật chúng áp bức, lợi dụng dân ta, muốn biến dân ta thành thuộc địa. Nhưng hãy nhìn ngày hôm nay của chúng ta để thấy được rằng, chúng ta đang là một đất nước độc lập, chúng ta có tiếng nói, có ngôn ngữ, văn hóa, phong tục riêng. Chúng ta được thừa nhận là một dân tộc có lãnh thổ, chủ quyền….Tất cả điều này được đánh đổi bằng chính con người Việt Nam xưa, các vị anh hùng, tầng lớp nông dân, tri thức, người già cho đến phụ nữ, trẻ nhỏ của ngày xưa,…không sợ súng đạn, không sợ thương vong, sẵn sàng một long đuổi tất cả bọn cướp nước bán nước. Công lao đó quá to lớn, vĩ đại, đó chính là một tường thành mãi mãi của thời gian, cột mốc không bao giờ được xóa bỏ, chúng ta cần trân trọng và biết ơn. Hãy hướng về cội nguồn, nơi những người đã khuất đã nằm xuống, hãy để họ mãi sống trong lòng chúng ta.

Mỗi năm, chúng ta đã chúng thường tổ chức ngày tưởng nhớ công lao những người anh hùng liệt sĩ vào ngày 27/7. Chúng ta cũng luôn tổ chức những cuộc tìm kiếm những mộ anh hùng vô danh về với người thân của họ. Chúng ta cũng luôn thăm hỏi, tặng quà, tạo công việc cho những người thương binh, những mẹ Việt Nam anh hùng. Tuy chỉ là những hành động nhỏ, nhưng đây cũng là một cách để chúng ta thể hiện lòng biết ơn, uống nước nhớ nguồn của dân tộc.

Và hơn hết, chúng ta phải nhớ đến công ơn dưỡng dục, sinh thành của cha mẹ. Cha mẹ là những người luôn cho ta những thứ tốt đẹp nhất mà không bao giờ cần chúng ta đến đáp. Cha mẹ sẵn sàng hi sinh, chiu mọi khổ cực, có thể nhường cơm, nhịn đói để lo cho ta được no đủ. Vậy, mỗi đứa con hãy khắc cốt ghi tâm sự hi sinh thầm lặng của cha mẹ. Chúng ta hãy cố gắng học tập, rèn luyện thật tốt, trở thành người tốt, người có ích cho xã hội. Lúc đó chính bạn sẽ khiến ba mẹ được ấm lòng và hạnh phúc. Khi cha mẹ về già, nhìn những thành quả bạn gặt hái được sẽ khiến họ vui vẻ khỏe mạnh. Là một đứa con, chỉ cần nụ cười trên đôi môi cha mẹ bạn sẽ thấy hạnh phúc nhường nào, tại sao ngay lúc này bạn không thực hiên?

Và biết ơn với những người giúp đỡ với chúng ta như câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” Họ đã sẵn sàng giúp đỡ bạn khi bạn khó khăn, nếu không có họ liệu bạn có vượt qua và thành công không. Lòng biết ơn sẽ giúp cho mối quan hệ giưa người với người trở nên tốt đẹp hơn, tình cảm hơn. Nhưng bạn phải bày tỏ lòng biết ơn bằng chính trái tim của mình, để nó trở nên chân thành và thiêng liêng nhất.

 

Nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều mảng tối, và tồn tại nhiều tệ nạn như phá hủy những nơi cổ kính, chụp hình phản cảm bên những bia mộ, con cái đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, đánh đạp cha mẹ. Phản bội lại với những người đã giúp đỡ mình, đã hướng dẫn mình đi đúng đường.…Họ quên đi những giá trị tốt đẹp của dân tộc luôn uống nước nhớ nguồn, biết ơn với những công lao trong quá khứ, luôn nhớ đến công ơn sinh thành và nuôi dưỡng, nhớ ơn với những người đã giúp đỡ mình. Thật buồn và đáng tiếc làm sao! Chúng ta cần lên án, phê phán thực trạng này. Cuộc sống sẽ chẳng còn tốt đẹp và ý nghĩa khi chúng ta quên đi những long biết ơn, nó đẩy chúng ta lạc lõng trong xã hội, thật bạc bẽo khi bạn đang sống cuộc sống hôm nay trên mồ hôi, nước mắt và máu của những người đã đi trước mà bạn lại vô tâm không nhớ đến.

 

Giới trẻ ngày nay, chính là một thế hệ mới đưa đất nước đến tầm cao mới, vậy các bạn đừng bỏ đi truyền thống quý báu của dân tộc. Chúng ta hãy làm cháy nồng phong trào anh hùng, tưởng nhớ những người đã khuất, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, và đặc biệt hãy là một người hiếu thảo đối với cha mẹ và người thân…. đây chính là hành động thiết thực nhất mà bạn phải làm. Đừng bỏ qua nó.

 

Uống nước nhớ nguồn hay ăn quả nhớ kẻ trồng cây chính là nét đẹp, bản sắc, đạo lý của dân tộc Việt. Hãy cùng gìn giữ và quý trọng, hãy sống để tưởng nhớ và biết ơn, hãy mở rộng trái tim của chúng ta để cùng tạo nên nhưng trang sử mới tốt đẹp cho dân tộc Việt Nam.

Bình luận (0)
Phu Thuy Kieu Linh
Xem chi tiết
Linh Phương
7 tháng 11 2016 lúc 17:11

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Cuộc đời là nền tảng cho sự nghiệp sáng tác. Lịch sử khoa học không những nghiên cứu ngôn ngữ trong từng giai đoạn mà còn cung cấp cho người đọc những đóng góp quan trọng của một tác gia trong thời đại về phương diện cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.

Theo dòng lịch sử tác phẩm văn chương luôn chịu sự thử thách chọn lọc khắc nghiệt của thời gian và nhiều tác phẩm rơi vào quên lãng. Dường như ngược với quy luật ấy , có những tác giả và tác phẩm lại không ngừng được bàn luận qua các thời kì lịch sử. Cuộc đời và tác phẩm của họ mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được nhiều vấn đề xã hội, có thể dự báo một điều gì cho hậu thế.

Ở đây, chúng tôi xin được phép đặt thẳng vào vấn đề, tìm hiểu đôi điều về cuộc đời và những sáng tác của một tác gia lớn, một đại thi hào của Việt Nam nói chung và thế giới nói riêng – Nguyễn Du. Nguyễn Du đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam, làm cho những con người Việt luôn ở bên nhau, thông cảm, đồng cảm trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống thường nhật, trong lao động và đấu tranh để bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc.

B- MINH HỌA:

1- Cuộc đời:

a- Thời đại:

- Xã hội: thế kỉ XVIII – XIX là thời kì khủng hoảng trầm trọng nhất của chế độ phong kiến, là thời kì diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại:

+ vua quan tranh giành quyền lợi chiếm giết lẫn nhau.

+ những cuộc nổi dậy đòi quyền sống của các phong trào nông dân

+ nền kinh tế hàng hóa phát triển cho thấy sức mạnh của đồng tiền, cũng như tư tưởng phóng khoáng của tầng lớp thị dân…

-Nguyễn Du đã sống qua ba thời đại: Lê – Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn, đã trải qua những cuộc binh biến tàn khốc của các tập đoàn phong kiến và các cuộc khởi nghĩa đòi quyền sống của tầng lớp nông dân. Ông đã chứng kiến tận mắt cảnh bãi bể hóa nương dâu, cảnh sống xa hoa, đồi trụy cũng như sự thống trị dã man, tàn ác của giai cấp phong kiến, cảnh đau khổ vì nghèo đói, cảnh đày đọa và những áp bức bất công của đại đa số quần chúng nhân dân…

b- Quê hương - Gia đình:

Nguyễn Du sinh ngày 23/11/ Ất Dậu tức ngày 03/11/1766, trong một gia đình đại quý tộc sa sút, nổi tiếng về đường khoa bảng, nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to. Ở vùng Hồng Lĩnh ( quê Nguyễn Du) dân gian thường truyền tụng câu ca dao:

Bao giờ Ngàn Hống hết cây

Sông Rum hết nước họ này hết quan

Gia đình Nguyễn Du có bề dày về lịch sử truyển thống văn học nghệ thuật. Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác nhau. Đó là tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật của ông. Cha là Nguyễn Nghiễm, quê ở Hà Tĩnh, một sử gia, một nhà thơ đồng thời là quan tể tướng của Triều Lê nên Nguyễn Du có ảnh hưởng ít nhiều từ thân phụ. Mẹ là Trần Thị Tần, người xứ Kinh Bắc, một vùng quê hát quan họ nổi tiếng nên từ nhỏ ông đã được đắm mình trong chiếc nôi của làn điệu dân ca phía Bắc, đó là một ảnh hưởng không nhỏ đến những âm điệu trong sáng tác của ông. Do mồ côi cha mẹ sớm nên ông phải đến ở cùng người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản nổi tiếng phong lưu một thời, và rất mê hát xứng, chính những điều đó đã ảnh hưởng và để lại dấu ấn trong sáng văn học của ông,và có thể do đó mà hình ảnh người ca nhi, kĩ nữ luôn được phát họa đậm nét trong các tác phẩm của ông. Không những thế những người cháu của Nguyễn Du cũng đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng.

c- Bản thân:

- Ngày 23-11- Ất Dậu ( 3-1-1766) : Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ở phường Bích Câu, Thăng Long, là con thứ bảy trong gia đình.

- Năm 1776 ( Bính Thân ) cha là Nguyễn Nghiễm qua đời; được truy tặng tước Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần.

- Năm 1778 ( Mậu Tuất) : mẹ là Trần Thị Tần qua đời.

- Năm 1782 ( Nhâm Dần) : Trịnh Sâm mất, kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Nguyễn Khản được làm thượng thư bộ lại tước Toản quận công.

- Năm 1783 ( Quý Mão) : Nguyễn Du thi hương, lấy vợ là con gái của Đoàn Nguyễn Thục.

- Năm 1789 ( Kỉ Dậu) : Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở thành Phú Xuân, đổi niên hiệu là Quang Trung

Nguyễn Du về quê vợ làng Quỳnh Côi, Sơn Nam.

- Năm 1793 ( Quý Sửu) : Nguyễn Du về thăm quê ở Tiên Điền.

- Năm 1796 ( Bính Thìn) : Nguyễn Du có ý trốn vào Gia Định, nhưng bị bắt giam 3 tháng ở Nghệ An, cho ra đời tập thơ “ Cảm hứng trong tù”.

- Năm 1802 ( Nhâm Tuất) : Gia Long lên ngôi Nguyễn Du ra làm tri huyện, sau đó thăng chức tri phủ.

- Năm 1803 ( Quý Hợi) : được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ Thanh sang phong sắc vua cho Gia Long.

- Năm 1813 ( Quý Dậu) : được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh

- Năm 1820 ( Canh Thìn) : Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Nguyễn Du được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng bị bệnh dịch mất ngày 10-08 (16-09), thọ 54 tuổi.

- Năm 1965 ( Ất Tỵ) : Hội đồng Hòa bình Thế giới tổ chức kỉ niệm 200 năm năm sinh danh nhân văn hóa – đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

d- Nhận xét:

Từ những điều trên cho thấy các sáng tác của Nguyễn Du đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ gia đình và truyền thống văn chương. Những tác phẩm ấy thể hiện sự phản ánh của mình về thời cuộc và những hiện thực cuộc sống. Qua đó ta cảm một tấm lòng thiết tha yêu đời, một tấm lòng nhân đạo sâu sắc.

2 - Sự nghiệp sáng tác:

a- Quan điểm nghệ thuật:

Vì sống trong thời đại như thế, chứng kiến những thăng trầm, những bể dâu của xã hội như thế đã tác động rất lớn đến hồn thơ Nguyễn Du, ông đã dùng ngòi bút của mình để giãi bày, để viết lên những tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc, các sáng tác của ông xoay quanh những vấn đề trong thời ông sống, ông lên án tố cáo chế độ phong kiến và thông cảm, bênh vực cho số phận những người bất hạnh. Nói đến quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Du phải nói đến tư tưởng nhân đạo- đấy là tư tưởng nòng cốt trong sáng tác của ông.

v Hệ thống chữ viết và thể loại: Nguyễn Du viết cả chữ Nôm và chữ Hán:

Ø Ba tập thơ chữ Hán:

Thanh Hiên thi tập ( 78 bài) được viết trong ba thời kì:

+ Thời kì sống ở Thái Bình. Đây là khoảng thời gian mười năm gió bụi của Nguyễn Du

+ Thời kì về ở Hồng Lĩnh: khoảng 6 năm. Đây là thời kì mà tác giả ngồi tù 3 tháng ở xứ Nghệ

+ Thời kì đầu ra làm quan nhà Nguyễn.

Tóm lại, Thanh hiên thi tập gồm những bài thơ sáng tác trong 3 thời kì ấy.

Tập thơ chữ hán Nam trung tạp ngâm (40 bài) ( 1802) khoảng thời gian Nguyễn Du làm quan ở Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh.

Tập Bắc hành tạp lục ( 132 bài) sáng tác từ những năm 1813 trở đi, trong những chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Ø Và nhiều sáng tác chữ Nôm, trong đó đáng chú ý nhất là hai tác phẩm:

· Văn chiêu hồn hay còn gọi Văn tế thập loại chúng sinh, viết bằng thể thơ song thất lục bát dài 18 câu chữ Nôm. Bài văn tế được viết trong thời đại loạn lạc suy tàn. Bức tranh, cảnh tượng cái chết trong tác phẩm là những phản ánh cuộc đời trong thời đại của nhà thơ đang sống nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu XIX.

Chưa rõ thời gian sáng tác của Văn chiêu hồn : có hai ý kiến:

+ Trần Thanh Mại trên “ Đông Dương tuần báo” năm 1939. Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người khắp trên đất nước âm khí nặng nề.

+ Hoàng Xuân Hãn cho rằng Nguyễn Du viết bài Văn tế này sau Truyện Kiều khi ông làm cai bạ ở Quảng Bình ( 1802 – 1812)

Nhưng nói chung bài Văn tế được viết trong thời đại Nguyễn Du sống trong cảnh loạn lạc, phu phen, mất mùa đói khổ người chết như một ám ảnh.

· Truyện Kiều

Thời điểm sáng tác có 3 ý kiến:

+ sau khi đi sứ về ( sau 1813) theo “ Đại Nam chính biên liệt truyện”

+ mới làm quan triều Nguyễn (1802 – 1809) theo thuyết Đào Duy Anh, Hoài Thanh

+ vào những năm ẩn dật dưới chân núi Hồng, từ năm 1796 đến 1801 trước khi ra làm quan với nhà Nguyễn, theo thuyết Trương Chính

Dựa vào những hiểu biết của mình đối với cuộc sống dưới chế độ phong kiến Nguyễn Du nhận thấy vận mệnh của người dân bình thường dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam thì cũng đều như nhau. Trong tác phẩm kiệt xuất này, nhà thơ đã vạch trần tất cà sự đen tối và những hiện tượng bất hợp lí của xã hội phong kiến, đồng thời phản ánh số phận hẩm hiu của người thường dân, do đó nội dung tư tưởng của tác phẩm, khách quan mang đầy đủ ý nghĩa phê phán xã hội phong kiến. Cái vĩ đại của Truyện Kiều là đã đặt ra vấn đề con người, vấn đề vận mệnh con người trong xã hội cũ. Về mặt này, cũng không có truyện thơ Nôm quá khứ nào có thể so sánh được với kiệt tác của Nguyễn Du. Truyện Kiều có sức lay động sâu xa là vì đằng sau nó là sự thật về đời sống và về con người. Đó cũng là cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, là tiếng nói chung của các sáng tác văn học thế kỉ này. Truyện Kiều là kết tinh tinh hoa thời đại, là đỉnh cao, là thành tựu chói lọi của văn học cổ điển Việt Nam.

Các giai đoạn sáng tác:

Có 3 giai đoạn:

- Giai đoạn trước khi ra làm quan nhà Nguyễn, có Thanh Hiên thi tập, gồm 78 bài, sáng tác bằng chữ Hán.

- Giai đoạn làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương phía Nam Hà Tĩnh, quê hương ông, có Nam Trung tạp ngâm 40 bài, sáng tác bằng chữ Hán.

- Giai đoạn khi và sau khi đi sứ sang Trung Quốc, có Bắc hành tạp lục gồm 132 bài, sáng tác bằng chữ hán. Truyện Kiều sáng tác bằng chữ Nôm.

b- Hình thức sáng tác:

- Ngôn ngữ: ngôn ngữ trong sáng tác Nguyễn Du là ngôn ngữ trữ tình. Nó không chỉ đa dạng, tế nhị trong ý nghĩa, trong màu sắc mà còn giàu tính nhạc. Cái tiêu tao réo rắt, ngọt ngào của những câu lục bát trong Truyện Kiều chính là thứ ngôn ngữ nhịp nhàng, uyển chuyển, tình tứ của cảm xúc hồn nhiên. Trong bút pháp trữ tình Nguyễn Du đã tận dụng triệt để mặt âm thanh của ngôn ngữ để tăng thêm sức biểu hiện, sức gợi cảm cho mỗi câu thơ tả tình, tả cảnh. Trong nghệ thuật dùng ngôn ngữ trữ tình của Nguyễn Du ta thấy lối biểu hiện tâm trạng bằng câu hỏi tu từ như đang cất lên từ toàn bộ cuộc sống của con người.

- Nghệ thuật miêu tả:

+ Về cảnh: đọc tác phẩm của Nguyễn Du ta bắt gặp một thế giới thiên nhiên đầy thi vị, đầy gợi cảm, với những sắc thái tế nhị khác nhau. Nguyễn Du không chỉ để cho cảnh vật tự bộc lộ vẻ đẹp thanh thoát, chân thật của nó mà gắn liền cảnh đồng cảm với người. Qua sức sống thiên nhiên Nguyễn Du như tố cáo xã hội phong kiến. Thái độ đồng cảm sâu sắc khiến cảnh vật hiện lên rõ nét – đồng thời phản ánh tinh tế tâm trạng của nhân vật. Ông tập trung nhắc đến các hình tượng như : mùa thu, vầng trăng, ngọn cỏ, không gian… Cảnh vật trong Truyện kiều hiện ra không chỉ để biểu hiện tâm trạng của nhân vật, thái độ của Nguyễn Du mà còn để làm nền khung cảnh làm nên trời đất, làm nên màu sắc, âm thanh, hoa lá, cỏ cây…

+ Dùng thi pháp ước lệ, tượng trưng: Nguyễn Du dùng các ẩn dụ có sẵn trong truyền thống văn học được coi là tượng trưng cho những nét tâm lí nhất định .

Những hình ảnh, những điển cố luôn đi kèm với thái độ nhân vật. Nó giải thích thái độ tính cách của con người.

Dùng bút pháp tả thực diễn tả trực tiếp những tình ý của con người như nó vốn có.

+ Nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ được dùng để miêu tả tâm lí nhân vật làm cụ thể hơn về tâm lí.

+ Kết hợp bút pháp tả thực và tượng trưng ước lệ tạo nên một kết cấu động.

+ Tả người là một nghệ thuật đặc sắc, chứng tỏ rằng Nguyễn Du là bậc thầy trong việc phân tích tâm lí nhân vật. Đó có thể coi là nghệ thuật phân tích tâm lí một cách cổ điển và sáng tạo.

l Thi pháp ước lệ: từ cảnh vật, ông đã khắc họa nên hình ảnh của con người với những nét đặc sắc của nó về số phận, tính cách và tâm lí ẩn sâu trong nhân vật.

l Chân dung: từ cách xây dựng chân dung của nhân vật, Nguyễn Du đã khắc họa được số phận và tính cách của nhân vật ấy. Nhân vật mà ông quan tâm nhiều nhất đó là những con người mềm yếu, là người phụ nữ phải chịu số kiếp long đong và đau khổ.

l Tâm lí: ông đi sâu vào tâm lí nhân vật hơn,them vào những đoạn tả cảnh, tả tình , làm cho nhân vật được thực hơn và gần với cuộc sống hơn.

IV- Kết luận:

Giữa cuộc đời và sự nghiệp sáng tác có ảnh hưởng rất lớn với nhau. Cuộc đời là nền tảng, là cơ sở để tìm hiểu những giá trị về nội dung trong sáng tác của một nhà thơ. Ngược lại qua tác phẩm không chỉ giúp ta hiểu về một tác giả mà còn hiểu cả một thời đại mà tác giả đang sống. Nguyễn Du là một con người có tâm hồn lớn. Trước sự thay đổi của thời cuộc, tuy Nguyễn Du có chán chường, có lúc gần như tuyệt vọng song ông vẫn nhìn thẳng vào thực tế không quay lưng lại với cuộc đời như những người cùng thời( Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hành…). Nguyễn Du đã trải qua những năm tháng sống cuộc đời bảy nổi ba chìm, ốm không thuốc,đói không có cơm ăn, sự nghiệp tiêu tan, người thân mỗi người mỗi ngã, bản thân trôi giạt… thế nhưng ông vẫn sống có ích cho cuộc đời. Là người sống trong gia đình quý tộc, đi đây đi đó nhiều nhìn thấy và thông hiểu tâm tư nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, nên hơn ai hết ông có cái nhìn toàn diện về cuộc đời và phản ánh vào trong tác phẩm những vần thơ sâu sắc, như Chế Lan Viên từng viết: “ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”.

Hơi dài những bạn tham khảo nha!

Bình luận (0)
Thảo Phương
7 tháng 11 2016 lúc 17:32

1- Đề tài:

Là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm. Đề tài của tác phẩm là một phương diện trong nội dung của nó , là đối tượng đã được nhận thức, lựa chọn, gắn liền với dụng ý, thế giới quan, lập trường tư tưởng, quan điểm thẫm mĩ của nhà văn.

2- Nội dung:

Nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau.Nội dung của tác phẩm là kết quà khám phá, phát hiện khái quát của nhà văn. Các yếu tố nội dung của tác phẩm như chủ đề, tư tưởng, cảm hứng… về thức chất đều là các lớp ý nghĩa của cái biểu đạt, do người đọc cảm nhận và khái quát nên. Do vậy nội dung của tác phẩm không đứng yên, bất biến, mà được mở rộng, đào sâu trong quá trình tiếp nhận, làm cho tác phẩm văn học tồn tại như một quá trình.

3- Hình thức:

Hình thức nghệ thuật của tác phẩm là hiện tượng độc đáo, ứng với nội dung độc đáo, hoàn toàn không phải là số công giản đơn của các thủ pháp và phương tiện nghệ thuật. Trong tính chỉnh thể, hình thức nghệ thuật có nghĩa là hình thức cảm nhận đời sống, là cách tự bộc lộ của nội dung tác phẩm. Trong tác phẩm văn học hình thức nghệ thuật là kênh duy nhất truyền đạt nội dung của nó, là phương tiện cấu tạo nội dung và làm cho nó có bộ mặt độc đáo. Do đó tìm hiểu hình thức là điều kiện không thể thiếu để hiểu đúng nội dung. Về mặt triết học, nội dung luôn luôn quyết định hình thức, hình thức phù hợp nội dung.

Nội dung và hình thức là hai phương diện cơ bản thống nhất không thể tách rời của các tác phẩm văn học.

 

 

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Cuộc đời là nền tảng cho sự nghiệp sáng tác. Lịch sử khoa học không những nghiên cứu ngôn ngữ trong từng giai đoạn mà còn cung cấp cho người đọc những đóng góp quan trọng của một tác gia trong thời đại về phương diện cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.

Theo dòng lịch sử tác phẩm văn chương luôn chịu sự thử thách chọn lọc khắc nghiệt của thời gian và nhiều tác phẩm rơi vào quên lãng. Dường như ngược với quy luật ấy , có những tác giả và tác phẩm lại không ngừng được bàn luận qua các thời kì lịch sử. Cuộc đời và tác phẩm của họ mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được nhiều vấn đề xã hội, có thể dự báo một điều gì cho hậu thế.

Ở đây, chúng tôi xin được phép đặt thẳng vào vấn đề, tìm hiểu đôi điều về cuộc đời và những sáng tác của một tác gia lớn, một đại thi hào của Việt Nam nói chung và thế giới nói riêng – Nguyễn Du. Nguyễn Du đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam, làm cho những con người Việt luôn ở bên nhau, thông cảm, đồng cảm trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống thường nhật, trong lao động và đấu tranh để bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc.

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Thu Thủy
Xem chi tiết
Thảo Phương
2 tháng 3 2019 lúc 14:14

Hỏi đáp Ngữ văn

Bình luận (0)
Song Minguk
Xem chi tiết
Bồ Công Anh
27 tháng 10 2016 lúc 21:24

- Anh mặt đen, anh da trắng

Anh mình mỏng, anh nhọn đầu

Khác nhau mà rất thân nhau

Khi đi khi ở chẳng bao giờ rời?

(Là cái gì? - Bảng và phấn; giấy và bút; )

- Hè về áo đỏ như son

Hè đi thay lá xanh non mượt mà

Bao nhiêu tay toả rộng ra

Như vẫy như đón bạn ta đến trường?

(Là cây gì? - Cây phượng)

- Đầu đuôi vuông vắn như nhau

Thân chia nhiều đốt rất mau rất đều

Tính tình chân thức đáng yêu

Muốn biết dài ngắn mọi điều có em?

(Là cái gì? - Cái thước kẻ)

- Cày trên đồng ruộng trắng phau

Khát xuống uốmg nước giếng sâu đen ngòm?

(Là cái gì? - Cái bút mực)

Bình luận (0)
yen nguyen
Xem chi tiết
Linh Phương
20 tháng 10 2016 lúc 18:53

Bài làm

Từ thời xa xưa, ông bà ta đã thường sử dụng những câu thành ngữ, tục ngữ để răn đe và nhắc nhở con cháu của mình về những phẩm chất, đạo lí cần thiết của mỗi người ai cũng phải có như là: "một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"... các câu tục ngữ, thành ngữ ấy thể hiện lòng hiếu thảo, sự biết ơn và lòng thương người... Trong đó, có câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn" thể hiện phẩm chất đạo đức quan trọng của người Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước mình đang ngày một phát triển để hội nhập với nước ngoài thì đạo lí này càng trở nên sâu sắc hơn. Sau đây, tôi và các bạn hãy cùng nhau làm rõ câu tục ngữ này để có thế hiểu tận cùng những ý tứ của người xưa muốn răn dạy chúng ta thông qua câu tục ngữ này.

Thoạt nghe qua thì chắc hẳn ai cũng có suy nghĩ này rất đơn giản, rất dễ hiểu "Nước" là một thứ vô cùng quý giá, không có nước, con người và cây cỏ bị hủy diệt, không có sự sống. "Nguồn" là nơi xuất phát của dòng nước, nhưng đó chi là nghĩa đen của câu tục ngữ. Bên cạnh đó vẫn còn hàm ý sâu xa trong câu tục ngữ đó chính là lòng biết ơn. "Nước" chính là những thành quả của cha anh ta đã có công xây dựng nên. Vì vậy, khi thừa hưởng thành quả đó, chúng ta phải biết nhớ đến những người đã tạo ra nó, đồng thời phải biết giữ gìn quý trọng và không được lãng phí. Mặt khác, chúng ta phải có bổn phận phát huy phẩm chất đạo đức tốt đẹp này và truyền lại cho các lớp đàn em sau. Với những lời lí giải trên, chắc hẳn tôi và các bạn có thể hiểu được thế nào "uống nước nhớ nguồn" và tại sao khi "uống nước" chúng ta phải "nhớ nguồn". Trước tiên chúng ta phải thừa nhận một điều rằng đây là một đạo lí đúng và mỗi người cần phải thực hiện. Trong thiên nhiên và xã hội, không có sự vật nào là không có nguồn gốc. Trong cuộc sống, không có thành quả nào không do công sức lao động tạo nên. Trong lịch sử Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiên chống Pháp và chống Mĩ vô cùng gian khổ, nhiều người hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân và hơn thế nữa, có người đã phải hi sinh cả mạng sống của mình để chiến đâu giành lại độc lập cho đất nước. Họ đã chiến đấu với một ý chí kiên cường, anh dũng với mong muốn đất nước sớm được thống nhất và độc lập. Ngày nay, đất nước ta đã có được những điều đó và ngày một phát triển, hội nhập với thế giới. Đó chính là nhờ vào những công lao của cha anh ta, của những người đi trước. Chúng ta là những lớp đàn em, những thế hệ đi sau nên được thừa hưởng những thành tựu mà cha anh ta đã tạo ra. Vì vậy, chúng ta phải nhớ đên những người đã tạo ra những thành quả cho chúng ta. Ta phải biết đền đáp xứng đáng, đó chính là bổn phận tất yêu mà mỗi người chúng ta phải thực hiện. Ví dụ như: Hằng năm, nhà nước ta thường xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, cấp vốn cho những thương binh liệt sĩ và tạo điều kiện cho họ làm ăn để cải thiện cuộc sống. Đó chỉ là một phần nhỏ những gì chúng ta làm được so với những gì mà cha anh ta đã làm. Ngoài ra, lòng biết ơn giúp ta gắn bó với người đi trước, với tập thể..., từ đó hình thành một xã hội thân ái đoàn kết. Ở nhà trường, các bạn học sinh cùng nhau quyên góp tiền để giúp đỡ xây dựng nhà tình thương hay tặng quà cho những gia đình thương binh, liệt sĩ và ở mỗi khu phố, phường, xã thì mỗi gia đình nhỏ cũng làm giông như vậy... thể hiện tính đoàn kết của một xã hội thân ái. Nêu thiếu lòng biết ơn, con người sẽ trở nên ích kỉ, dễ thoái hóa và trở thành kẻ ăn bám gia đình và xã hội. Vì không có lòng biết ơn, ta sẽ không biết quý trọng nhũng thành quả của người khác tạo ra và sẽ sử dụng một cách lãng phí.

Bạn tham khảo nha! Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
Thảo Phương
20 tháng 10 2016 lúc 20:57

Hiện nay trên học đường yêu sớm quá đà,trò đánh nhau,đánh thầy cô… là những hiện tượng trở nên phổ biến. Văn hóa ứng xử trên học đường ắt hẳn là một điều rất đáng bàn hiện nay

Với guồng quay của xã hội,xã hội ngày càng phát triển thì giới trẻ ngày càng bị tiếp nhận những điều kiện tốt để phát triển cả về thể chất lẫn tâm hồn và nhà trường là một trong những môi trường giúp cho giới trẻ nâng cao nhận thức,giáo dục lí tưởng sống cho giới trẻ. Tuy nhiên bên cạnh đó thì hiện nay một vấn đề nổi cộm và đáng lo ngại đó là sự suy thoái về chuẩn mực đạo đức,hành vi và lối sống ứng xử văn hóa trong học đường làm ảnh hưởng tới những văn hóa tốt đẹp của dân tộc

Rất nhiều những sự việc nổi lên về ứng xử văn hóa ở học đường khiến cả một xã hội phải quan tâm. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì giới trẻ đã ứng xử như thế nào? Đó là những hình ảnh xấu về học sinh như đánh nhau,các bạn nữ đánh gen,rồi lột cả quần áo của nhau ra chốn đông người,nhưng việc làm này thường xuyên xảy ra và không còn là xa lạ gì với chúng ta nữa. Không chỉ dừng lại ở đó nhiều học sinh còn sử dụng cả vũ khí vào trường để đánh nhau,đó là hành động nông nổi ví dụ như một cái nhìn hay không cho bạn chép bài cũng bị đánh

Rồi cả việc học sinh lăng mạ,nói xấu thầy cô những người đã cho đi những kiến thức. Choáng với những học sinh lập ra nhóm để chửi thè giáp viên của mình . Rất nhiều người đã tỏ ra rất bức xúc trước những hành động đáng buồn đó

Có những người thầy cô giáo thì sao? Gần đây có rất nhiêu vụ việc ở học đường giáo viên có những cách ứng xử không hay đối với học sinh của mình. Nhiều giáo viên còn đánh học trò không thương tiếc

Vừa qua có vụ việc giáo viên đánh học sinh sau đó bị học sinh đánh trả lại đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của dư luận xã hội và có rất nhiều người lên tiếng vì vấn đề này. Cả thầy và trò đều có những hành động không đúng

Là một người giáo viên thì cần cư xử đúng chuẩn mực để không đẩy học trò của mình vào những hành động quá khích.

Còn nhiều những vấn đề đáng buồn như học sinh trên học đường yêu quá sớm và không ý thức được những việc mình làm dẫn đến những hậu quả khôn lường. Đôi khi chúng ta thường hay đặt ra câu hỏi rằng học sinh đến trường có phải là chỉ để học để phát triển về thể chất tinh thần hay là đến để học những gì khác?

Hiện nay vấn đề văn hóa học đường ngày càng đi xuống rất đáng buồn,không những vậy vấn đề giữa thầy và trò không được tôn trọng nhau. Xã hội càng phát triển thì giới càng ngày càng có những cách cư xử đáng lên án. Ông cha ta thường có câu là “Tiên học lễ,hậu học văn” thế mà bây giờ việc cư xử thiếu văn hóa của nhiều học sinh là một báo động lớn

Đối với người học trò thì phải chăm ngoan học giỏi vâng lời thầy cô,là thế hệ trẻ tương lai của đất nước,việc giáo dục nhân cách của hôm nay rất có ý nghĩa cho sự phát triển của tương lại mai sau. Còn về người thầy người cô thì cũng phải có những cư xử đúng chuẩn mực của mình để không có ấn tượng xấu với xã hội. hãy dạy những người trò của mình nên người ươm mầm cho thế hệ tương lai mai sau

Bình luận (0)
Nguyễn Thuỳ Dung
Xem chi tiết
Thảo Phương
11 tháng 10 2016 lúc 22:23

ok bn

Bình luận (2)
Huỳnh Tân
Xem chi tiết
Lê Võ Ngọc Hân
9 tháng 10 2016 lúc 20:00

Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lại cho lịch sử Việt Nam. Trong đó phải kể đến chiến công thần tốc đại phá quân Thanh. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước.

Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyền Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trận, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại yên ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quán lệnh nghiêm minh quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trân thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bại đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quan tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi - Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 23 ngàv, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thế xông lên chém giết, máu chảy thành suối, ! quân Thanh đại bại. Giữa chưa hôm ấy Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này.


 
Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

 

Bình luận (1)