Văn mẫu 10

Nguyen Dang Khoa
Xem chi tiết
Henry.
Xem chi tiết
Henry.
Xem chi tiết
Phan uyển nhi
Xem chi tiết
Công chúa sao băng
Xem chi tiết
Phạm Linh Phương
1 tháng 10 2018 lúc 18:31

*Gợi ý:

-Đi bão:chỉ một hiện tượng hay một phong trào đua xe trà lan về đêm trên các tuyến phố hay các thành phố lớn.Hiện nay, phong trào này nổi cộm nhất trong các sự kiện ăn mừng chiến thắng, nó được coi là''nếp văn hóa'' của người dân Việt Nam.

-Bàn luận:Nhưng ''đi bão'' một cách quá đà, nguyên nhân do quá phấn khích khiến tình hình an ninh trở nên khó khăn hơn,đặc biệt là vấn đề giao thông, xuất hiện nhiều''quái xe'' gây cản trở một số tuyến đường quốc lộ.

-Ngoài mặt tích cực còn có một số mặt tiêu cực :Niềm vui chiến thắng là tốt nhưng cách ăn mừng chiến thắng một cách ''thái quá'' sẽ trở thành trò lố đối với thanh niên Việt Nam.Mượn không khí vui mừng đó,không ít thanh niên tụ họp mở những cuộc giao lưu đầy mạo hiểm trên đường, gây ảnh hưởng một phần với mọi người xung quanh và an toàn của bản thân.

(+) Đây là ý kiến riêng của mình, bạn có thể bổ sung một số luận điểm khác cho hoàn chỉnh hơn :D

Bình luận (0)
Vy Nguyễn
Xem chi tiết
Trần Diệu Linh
21 tháng 9 2018 lúc 20:15

[tham khảo nha bn]

Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học viết Việt Nam do
Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam, giáo trình Văn học dân gian nhận định: “Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng, là thi liệu, văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc (Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Nguyễn Bính, Hồ Chí Minh, Nguyễn Duy….) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú”.

Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc. VHDG chính là nền tảng của VHV và có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của VHV, là nguồn cảm hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu và cảm hứng sáng tạo cho văn học viết.
+ Về phương diện nội dung: VHDG cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại những quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngoài ra, nó còn cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng về sự hình thành nhân cách con người. Nó bảo tồn, phát huy những truyền thồng tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương,...Biểu hiện rõ nhất là ở đề tài, nguồn cảm hứng, tư tưởng nhân ái, tình cảm lạc quan, yêu đời, tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình yêu con người,...
- Đề tài tiêu biểu trong văn học dân gian: Số phận người phụ nữ, thân phận người lao động nói chung, tình yêu đôi lứa, những kinh nghiệm sống quý báu, đặc biệt ngợi ca tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước,...
- Nguồn cảm hứng : Văn học dân gian thường lấy nguồn cảm hứng từ thiên nhiên, cuộc sống xã hội, lao động sản xuất,... .Đặc biệt, ca dao Việt Nam đã đưa ra những tiêu chí về vẻ đẹp người con gái truyền thống.
- Tư tưởng nhân ái : Văn học dân gian đề cao tình cảm yêu thương con người nhất là thân phận người phụ nữ, người lao động cùng khổ,.

Bình luận (0)
Kudo Shinichi
Xem chi tiết
Đoàn Mỹ Linh
Xem chi tiết
YếnChiPu
Xem chi tiết
Phạm Thu Thủy
18 tháng 9 2018 lúc 19:08

Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã Giám Sinh nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua nàng về cho nhà chứa của Tú Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ dành của Tú Bà ra tạm ở lầu Ngưng Bích. Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo, bị Tú Bà bắt về đánh đập rất dã man và buộc nàng phải tiếp khách.

Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

Đoạn 1 (từ Biết bao đến tối tìm Trường Khanh): Giới thiệu cảnh trớ trêu của Kiều.

Đoạn 2 (từ Khi tỉnh rượu đến nào biết có xuân là gì): Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều trong hoàn cảnh sống nhục nhã ở lầu xanh.

Đoạn 3 (từ Đòi phen đến mặn mà với ai): Tả cảnh để diễn tả nỗi cô đơn, đau khổ đến tột cùng của Kiều.

Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lọc vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.

Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.

Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.

Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế'’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội: vì hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. Do đó, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương vào ngòi bút.

Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.

Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.

Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.

Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.

Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!

Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.

Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.

Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:

Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.

Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.

Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.

Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân

Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.

Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.

Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.

Bình luận (0)
Phạm Thu Thủy
18 tháng 9 2018 lúc 19:09

Truyện Kiều được xem là tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam, đây cũng là tác phẩm làm nên tên tuổi cho đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều kể về cuộc đời của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Đoạn trích Nỗi thương mình là một trong những trích đoạn hay nhất của TRuyện Kiều, thể hiện được bi kịch không lối thoát của nàng Kiều.

Đoạn trích Nỗi thương mình kể về những chuỗi ngày đầy đau đớn, ê chề của nàng Kiều khi bị lừa bán vào Lầu xanh. Mở đầu đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã tái hiện lại khung cảnh đầy bát nháo của khách làng chơi và thân phận đầy đáng thương của nàng Kiều.

“Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng những hình ảnh mang tính chất ước lệ như” bướm lả ong lơi” “ cuộc vui đầy tháng”, “trận cười suốt đêm” để diễn tả khung cảnh đầy nhộn nhịp, bát nháo của những người khách làng chơi. Sống trong cảnh lầu xanh tràn đầy tửu sắc ấy, thân phận nàng Kiều càng trở nên nhỏ bé, đáng thương. Bởi con người tài sắc ấy giờ đây cũng như một món hàng hóa buộc phải mua vui cho những kẻ lắm tiền nhiều của ham mê tửu sắc.

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Buộc phải sống và thích nghi trong không gian ấy, Thúy Kiều đã vô cùng đau đớn và xót xa. Sự xót xa được đẩy lên đỉnh điểm khi giật mình sau những chén rượu và cuộc sống triền iên nơi lầu xanh. Thúy Kiều thương xót cho thân phận, hoàn cảnh của mình. Đây cũng là một nét mới lạ trông thơ của Nguyễn Du, bởi các tác phẩm trước đó các nhân vật chưa ý thức về nỗi khổ đau, bất hạnh của bản thân.

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sau dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Cuộc sống đơn độc nơi lầu xanh khiến Thúy Kiều chẳng thể lương nhờ cũng không thể dãi bày những tâm sự cùng ai, nàng đau xót cho thân phận bất hạnh của mình. Hình ảnh những cánh hoa giữa đường khiến cho độc giả không khỏi xót xa, bởi Thúy Kiều vốn là một người con gái tài sắc nhưng giờ đây thân phận nổi trôi cũng như những cánh hoa tàn giữa đường, mặc người chà đạp, tổn thương. Kiều đã tự ý thức được về bản thân mình nhưng sự tỉnh táo trong nhận thức ấy lại khiến cho nàng càng thêm đáng thương.

“Đòi phen gió tựa hoa kể

Nửa đêm tuyết bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Ở chốn lầu xanh đầy thị phi, vốn chẳng tìm được một người thật lòng, Thúy Kiều làm bạn với thi ca,họa và thơ nhưng cũng chẳng thể làm vơi bớt nỗi sầu. “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu” câu thơ gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng độc đáo, phải chăng trong cảm nhận đầy u sầu của nhân vật trữ tình thì cảnh vật cũng hóa ra tâm trạng, hay vốn cảnh vật luôn có sự đồng, cảm, sẻ chia với con người.

Tâm trạng buồn đau của nàng Kiều thấm đượm vào trong cảnh vật, khiến cho những cảnh vật vốn vô tri cũng có tình, biết buồn trước nỗi buồn của con người.

Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình đầy tinh tế, tác giả Nguyễn Du đã tái hiện đầy chân thực tâm trạng của nàng Kiều, đó là tâm trạng chán chường, ê chề, sống mà còn đau khổ hơn chết

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai”

Như vậy, trong đoạn trích Nỗi thương mình, tác giả NGuyễn Du đã thể hiện được hoàn cảnh đầy bi kịch của Thúy Kiều, cùng với đó là tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của Kiều khi phải sống trong lầu xanh.



Bình luận (0)
Phạm Thu Thủy
18 tháng 9 2018 lúc 19:10

Trước khi phải chấp nhận tiếp khách làng chơi, Thuý Kiều đã một lần “tự nhận” là người bội bạc. Đó là với chàng Kim. Do sức ép của đồng tiền, nàng - vì đạo hiếu mà phải bán mình cứu cha. Còn lần này khi vào nhà chứa của Tú Bà, không còn làsức ép của đồng tiền nữa, thay vào đó là áp lực của thần quyền. Ây là bóng ma Đạm Tiên. Đối với Thuý Kiều, bóng ma Đạm Tiên như một sự ám ảnh của định mênh. Gần như người con gái sắc tài toàn vẹn này ở vào bước ngoặt quan trọng nào, bóng ma oan nghiệt ấy cũng hiện ra đúng lúc. Nó vừa đóng vai trò một chứng nhân vừa săn đuổi đến cùng. Lần này cũng thế lúc đầu, Thuý Kiều định tự vẫn, nhưng nó nào đã cho: “Rỉ rằng: nhân quả dỏ dang - Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?Như thế là thần quyền thay thế cho đồng tiền thực hiện cái chức năng công cụ cũng cho một sức mạnh quyền uy vô hình khác cao hơn. Ấy là “trời xanh”. Vì vậy, Thuý Kiều dù không muốn đã phải cúi đầu: “Thân lươn bao quản lấm đầu-Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa Đầu hàng số phận như một thứ con chiên ngoan đạo, Kiều đã phải tự đày đọa mình, lấy thân mà trả nợ đời món nợ truyền kiếp như Đạm Tiên đã trả. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ nỗi đau đớn của nàng không có cách nào khác hơn là phải đi vào văn bản.

Một trong những thành tựu lớn về tư tưởng và nghệ thuật trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là ý thức về cái tôi cá nhân. Từ ánh sáng của cái tôi cá nhân đó mà soi rọi vào những cảnh ngộ khác nhau vừa tạo nên một cái nhìn nhất quán trên diện rộng, vừa có độ sâu, tác phẩm văn chương mới có khả năng trở nên một ám ảnh. Trong bối cảnh lịch sử của văn học trung đại (với hệ thống tư tưởng chính thống, với chủ trương phi ngã), “cái tôi” ấy ít có điều kiện nảy sinh và phát triển. Ấy là nói chung. Còn ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với khí thế quật khởi của phong trào nông dân - những người bị áp bức, bị đè nén cả về vật chất và tư tưỏng, một cái gì đó đã bung ra. Nhạy cảm và tiên phong là những trí tuệ bậc thầy vệ nghệ thuật. Bởi họ có trái tim lớn trước khi có một tài năng lớn để xúc động sâu xa, để rồi sau đó biểu hiện (và cả những kí thác) bằng hình tượng, vào hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo ra để đối thoại với muôn đời, Nguyễn Du là một trong số không nhiều như thế.

Đối chiếu với cuốn tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân, đoạn Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là hoàn toàn thêm vào chứ không có trong cốt truyện. Trong cốt truyện của nguyên bản thay cho lời kể là một bài ca, sau đó Kiều đem phổ nhạc vào khúc Hồ cầm, khi dạo lên ai nghe cũng não ruột. Bài ca kể tóm tắt thân phận nàng Kiều từ khi gia biến đến lúc mắc vào gian kế của Sở Khanh, nhưng tập trung vào lời dạy của Tú Bà về việc tiếp khách làng chơi.

Có lẽ cảm quan hiện thực của tác giả Truyện Kiều không chấp nhận sự né tránh, bởi mức độ sỉ nhục với con người như thế vẫn còn là chưa đủ. Phải thêm một trường đoạn đến 58 câu lục bát, người đọc mới hiểu được hết nỗi khổ đau và gắng gượng của Thuý Kiều sau khi vừa thoát được nơi hang hùm miệng rắn này đã rơi vào cạm bẫy lần thứ hai sau đó: “Tiếc thay nước đã đánh phèn - Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!". Cũng cần phải nói thêm, Nguyễn Du không tham kể việc. Chứng cớ là khi nói về cái không gian ô uế đó lần sau, ông chỉ nhắc qua. Điều ấy xác minh bản lĩnh nhà thơ trong việc cầm bút.

Về cấu trúc đoạn thơ hai mươi dòng này có thể có hai cách nhìn: phân chia theo bố cục bên ngoài và cũng có thể phát hiện ra một thứ mạch ngầm của liên kết bêntrong. Giữa hai cách xem xét đó, thông thường nên theo phương án thứ nhất. Nhưng dù có như thế thì cả hai vẫn phải đạt đến một sự đối ứng cân bằng để việc phân tích được người nghe chấp nhận. Vậy nên chia đoạn như thế nào? Trong một tài liệu hướng dẫn, có người cho rằng nên chia làm hai đoạn (Đoạn một từ câu 1 đến cấu 12: nói nỗi đau xót tủi nhục phải tiếp khách của Kiều. Đoạn hai: phần còn lại nói sự thờ ơ, cô độc của nàng trước thú vui của khách làng chơi). Và hình như người viết cũng phân vân nên mới nhấn vào cái âm hưởng chính: “Cả đoạn cực tả nỗi đau xót, tủi nhục, chán chường của nhân vật trước cuộc sống hèn hạ mà mình phải chịu đựng. Đoạn trích cũng thể hiện phẩm chất của Kiều tuy sống trong môi trường truỵ lạc mà tâm hồn nàng không vẩn đục, không buông thả vào cuộc sống truỵ lạc ấy. Đó là nét đẹp của tâm hồn nàng”.

Tuy nhiên, cách chia đoạn như trên là không hợp lí. Cần phải dồn tất cả các khái niệm như: đau xót, tủi nhục, thờ ơ, cô độc vào phạm trù tâm trạng để tách chúng ra khỏi cảnh ngộ mà nhân vật rơi vào. Như thế sẽ khoa học hơn và thuyết phục hơn. Cụ thể là nên chia đoạn trích làm hai phần: Phần một gồm có bốn câu đầu là cảnh ngộ phải tiếp khách của Kiều ở lầu xanh của mụ Tú Bà, phần hai gồm mười sáu câu còn lại diễn tả tâm trạng của nhân vật trong cảnh sống tủi nhục xót xa. Cách phân chia này có thể không cân đối về hình thức (số lượng), nhưng lại phản ánh được lô-gích của đoạn thơ: có tả cảnh, tả tình nhưng tình được khắc sâu hơn cảnh và từ đó mà nhân vật hiện ra với cả một thế giới nội tâm dồi dào, phong phú. Đây mới chính là tài năng và tâm huyết của nhà thơ.

Trong mười lăm năm lưu lạc của mình, hai lần nàng Kiều phải vào nhà chứa. Nhưng nếu lần thứ hai cảnh ngộ ấy chỉ như một sự kiện. Nguyễn Du không kể nhiều. Chỉ lướt qua một tâm trạng: “Chém cha cái số đào hoa - Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi”. Bởi sự thật, cảnh ngộ này chẳng khác gì lần thứ nhất, vả lại dụng ý của nhà thơ là chuẩn bị cho nàng một chặng đường hoàn toàn khác: gặp người anh hùng Từ Hải. Đó là lí do dẫn đến việc Nguyễn Du miêu tả khá kĩ, khá sâu cả cảnh ngộ và cả tâm trạng của người con gái nhà nề nếp gia phong sa chân vào chốn bùn nhơ nơi lầu xanh của mụ Tú Bà. Cách kể, tả ấy nếu không phải là Nguyễn Du, không ai viết được.

Bốn câu đầu đoạn trích dành cho cảnh tiếp khách làng chơi:

Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt dêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.

Cái tài của Nguyễn Du là chỉtrong bốn câu mà khái quát được một cảnh ăn chơi, thác loạn điển hình. Như ta biết, Nguyên Du vốn căm ghét cái xấu, cái ác thế nào. Ấy thế mà khi miêu tả cái nơi dơ dáy ấy, nhà thơ không hề sử dụng một bút pháp tả chân nhằm cụ thể hóa. Ngược lại, bằng phong cách cổ điển của văn chương bác học, bằng thủ pháp tượng trưng, ước lệ, tác giả đã gợi ra một không khí rất đặc trưng, về mặt nghệ thuật, có hai đặc điểm nổi bật. Thứ nhất là hình thức cặp đôi của hình ảnh: bướm lả - ong lơi, cuộc say - trận cười, suốt đêm - đầy tháng, lá gió -cành chim, sớm - tối, Tống Ngọc - Trường Khanh. Có lẽ trong Truyện Kiều chưa bao giờ mà biện pháp đối xứng, song hành lại dày đặc, lại ken kín cả bốn câu thơ như thế. Chỉ có hai cụm từ tách ra thì một chỉ số lượng (Biết bao), một chỉ không khí (Dập dìu) thì lại như một sự bổ trợ rất đắc lực cho cảnh đón, đưa không một phút nào dừng. Thứ hai, toàn bộ các hình ảnh ở đây đều nằm trong một môi trường ngược nghĩa. Dùng “trong” để nói “đục”, dùng “sáng” để tả “tối”, lấy cái đẹp đẽ mĩ miều để miêu tả cái nhơ nhuốc, xấu xa. Hình như trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Du, ông không tránh né bất cứ một điều gì, kể cả những gì bẩn thỉu nhất. Nhưng không phải vì thế mà có sao nói vậy. Nghệ thuật phản ánh hiện thực nhưng nghệ thuật còn phải sáng tạo hiện thực nữa. Đó mới là thiên chức nhân văn. Nó đòi hỏi một bản lĩnh. Cái tài của Nguyễn Du ở đây là chỉ tảcảnh, không tả người. Thế nhưng bao nhiêu những gương mặt người vẫn thấp thoáng hiện ra đâu đó trong cuộc sống truy hoan. Có cả cái niềm nở, tươi cười của gái làng chơi. Có cả cái hả hê, thoả mãn của khách làng chơi - những kẻ nhiều tiền, hiếu sắc. Từ bốn câu thơ ta nhớ lại lời dạy của Tú Bà cho Thuý Kiều về nghề nghiệp, đúng hơn là kinh nghiệm tiếp khách: “Cởi xiêm lột áo chán chường - Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lẩm rẩm - Đổi hoa lót xuống chiếu nằm - Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi”. Hoặc “Chơi cho liễu chán hoa chê - Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời". Đó là nói về “ong bướm lả lơi”. Còn những người khách thượng lưu đượe gọi là Tống Ngọc, Trường Khanh, ta cũng nhớ đến tài Tì bà hành của Bạch Cư Dị:

Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua

Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn

Vành lược bạc li ãy tan dịp gỗ

Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.

Nhưng đó mới chỉ là chuyện chuốc rượu, nghe đàn. Còn trong Truyện Kiều trong trường hợp này không có một tiếng đàn nào cất lên, nghĩa là không có được sự sạch sẽ, thanh cao như thế. Chủ nghĩa thực hiện qua tài năng của Nguyễn Du tinh tế và sâu sắc biết chừng nào!

Nhưng âm hưởng chủ đạo của cả đoạn thơ không phải là tả cảnh. Như tên gọi của đoạn trích, đó là “Nỗi thương mình”:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn cảnh

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Ởđôi câu lục bát có tính chất mở đầu tâm sự này, ta nhận ra hai khía cạnh. Thứ nhất cái khoảnh khắc thuộc về mình, được là mình của Thuý Kiều thật hiếm hoi, ít ỏi. Đó là một phút lặng của tâm hồn, một nốt lặng giữa bản nhạc xô bồ, ồn ã. “Khi tỉnh rượu” gợi đến những cuộc say, “lúc tàn canh” gợi ra cuộc vui thâu đêm suốt sáng. Lúc đó, nàng thuộc về người khác, là con người khác. Đến lúc này đây mới được là mình. Thứ hai, khi đã trở lại là mình thì cảm nhận sửng sốt, kinh hoàng: nàng không còn là nàng nữa. Cái thảng thốt ấy thể hiện bằng nhịp điệu giật cục. bằng ba chữ “mình” lặp lại ai oán xót xa. Đây là tiếng kêu trời, là tiếng kêu thầm tuy không một giọt nước mắt tuôi rơi mà thấm vào gan ruột. Câu thơ như động tác soi gương ấy nói về sự thay đổi, sự hủy hoại, sự phai tàn vừa như một tiếng kêuthan vừa như một lời tự vấn. Nó có liên quan đến những cuộc hoan lạc, những trận cười, những cuộc say không còn ngày tháng nữa. Nhớ lại mà “giật mình”, nhớ lại mà ghê rợn như kẻ sa chân vào địa ngục giữa chốn trần gian. Nó cũng còn liên quan đến thành phần xuất thân của nàng, phẩm chất tiết sạch giá trong của nàng nữa. Cái ý ở ngoài lời này mới là phần chìm của “tảng băng trôi”. Cũng cần phải hiểu thêm: Thuý Kiều vốn là con người tuy rất giàu tình thương, nhưng trước đây tình thương ấy hướng về người khác: thương Đạm Tiên, thương cha và em, thương Kim Trọng. Thương đến mức quên mình. Còn đến lúc này đây con người cá nhân của nàng mới xuất hiện. Và một khi xuất hiện nó như một trận sóng xô bờ, nối tiếp nhau, chồng chất lên nhau, quặn thắt.

Nỗi thương mình trước hết là thương số phận của mình, thân phận của mình:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Bằng phương pháp so sánh, Thuý Kiều thấy hai đầu của đối cực hiện ra như một vực một trời: trước khác, bây giờ khác. Trước đây “phong gấm rủ là” êm đềm, ấm cúng, gia phong, nề nếp “Êm đềm trướng rủ màn che - Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Đó là một thứ hoa thơm phong nhuỵ ý tứ, giữ gìn. Còn bây giờ vẫn bông hoa ấy đã rách nát, tả tơi. vẫn là cách nói tượng trưng, cách điệu của văn chương bác học mà gợi nhiều liên tưởng đến cuộc dâu bề thăng trầm. “Hoa giữa đường” là một thứ hoa roi lấm láp. Vẫn biết cuộc đời là biến đổi nhưng sự biến đổi nhanh chóng và ghê gớm đến thế kia thì thật bất ngờ. Hai từ "sao” (Khi sao, giờ sao) từ hình thức nghi vấn chuyển sang hình thức cảm thán chính là vì thế. Trở lại phép so sánh, ta nhận ra một dấu hiệu khác thường. Nếu chỉ đọc hai câu “khi sao” và “giờ sao” thì thấy rất là đăng đối. Nhưng đến hai cặp câu tiếp theo thì sự đăng đối đã không còn. Vậy chỉ còn một cách hiểu: vế thứ nhất chỉ có một câu (“Khi sao phong gấm rủ là”), còn vế thứ hai là tất cả những câu còn lại. Những câu còn lại này cụ thể hóa cho cái hình ảnh bông hoa giữa đường trên phương diện hình thể, thân xác của loài hoa. Nói đến “mặt” (Mặt sao...), nói đến “thân” (Thân sao...) là nói đến nhan sắc của người phụ nữ. Nhưng hàm nghĩa trong trường hợp này lớn hơn. Ví như câu: “Mặt sao dày gió dạn sương”. Đó là thái độ vô cảm của người con gái vốn mẫn cảm và da cảm là nàng Kiều trước đây. Cũng câu thơ nói đến “gió sương” này ta còn nhớ lúc mã Giám Sinh xem mặt Thuý Kiều, nàng rất ngại ngần, e lệ: “Ngại ngùng giợn gió, e sương". Sự e lệ ấy giờ đây đã không còn. Điều này có khi còn sợ hơn cả tấm thân ngọc ngà mà giờ đây ong chường bướm chán. Tuy nhiên về tổng thể mạch thơ vẫn được nối kết với nhau rất chặt chẽ. Chặt chẽ trong sự tính đếm kiểm kê về cái còn cái mất. Chặt chẽ trong sự lắp đặt bốn từ “sao” như một tiếng thở dài. Chặt chẽ cả trong thái độ buông xuôi, bít lực.

Nỗi thương mình thứ hai là thương cho sự lẻ bóng, cô đơn không có gì bầu bạn, không có người tri kỉ. Có đến sáu câu thơ tả cảnh. Nhưng cảnh tuy không phải không đẹp, nhưng nó vô hồn. Nói cảnh đẹp vì ở đây có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt:

Đôi phen gió tựa hoa kể

Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bê trăng thâu.

Nhưng người với cảnh chỉ là “đồng sàng dị mộng” mà thôi. Một khía cạnh nữa của đoạn thơtả cảnh, ấy là sự bẽ bàng. Sự bẽ bàng này ta đã gặp một lần khi Kiều ở lầu Ngưng Bích: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya - Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Nhưng lần ấy tuy có lo sợ nhưng chưa hết hi vọng. Còn lúc này đây, hi vọng đã không còn. Cái buồn tủi của con người lây sang cảnh vật đã đành (“Người buồn cảnh cóvui đâu bao giờ), vẻ trong sáng của thiên nhiên còn tương phản với tấm thân ô uế. Cho nên cũng là “Nhìn hoa bóng thẹn” nhưng không phải do cảnh ngộ trớ trêu như lần trước mà là sự huỷ hoại nhân phẩm của một con người. Con người ấy bây giờ đây chỉ còn lại cái bóng của chính mình. Cũng cầm kì, thi, hoạ, nhưng gượng gạo, uể oải:

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Sự lẻ bóng đơn côi thể hiện trong cách dùng từ (từ “vui” và từ “ai”) trong tiết tấu chì chiết, đay nghiến bản thân chỉ những con người biết tự trọng như nàng Kiều mới có.

Xét cho cùng, mặt đen tối của hoàn cảnh cũng như sự tủi phận xót xa của Thuý Kiều có một lớp nghĩa thứ hai. Đó là những khao khát của một con người hướng thiện muốn vươn lên như một loài sen. Dù sống giữa chốn bùn nhơ nhưng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đó là tia sáng lạc quan nhất mà người đọc có thể cảm thông và chia sẻ: “Chữ trinh còn một chút này” với Kim Trọng. Chung thuỷ với cái đẹp của tâm hồn, không đồng loã với cái xấu và cái ác, đó là phẩm chất đáng trân trọng nhất của nhân vật nàng Kiều, một sáng tạo vô giá của Nguyễn Du.

Bình luận (0)
Trần Đặng Huyền Linh
Xem chi tiết