Nhà Trần thay thế triều đại nào để cai quản đất nước?
Hãy trìnhbày và phân tích việc tổ chức bộ máy nhà nước và cai quản đất nước Đại Việt dưới thời Lý, Trần?
- Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt.
- Tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Vua đứng đầu đất nước, nắm mọi quyền hành cao nhất về chính trị, luật pháp, quân sự, nghi lễ, đối ngoại.
+ Giúp vua có Tể tướng (Thái úy), các đại thần,, các chức Hành khiển, các cơ quan hành chính, pháp lý như sảnh, viện, đài.
- Tổ chức cai quản đất nước:
+ Chia đất nước thành nhiều lộ, dứoi lộ là phủ, huyện, châu, hương.
+ Quân đội gồm có Cấm binh bảo vệ nhà vua và kinh thành. Lộ binh ở các địa phương. Quân đội được tuyển chọn theo chế độ “Ngụ binh ư nông”.
+ Luật pháp: Thời Lý có bộ Hình thư. Thời Trần có bộ hình luật riêng.
+ Tuyển chọn quan lại: Ban đầu ở thời Lý – Trần, quan lại chủ yếu được tuyển chọn từ con em các gia đình quý tộc hoặc con cháu quan lại. Về sau, những người thi cử đỗ đạt cũng được làm quan, nắm giữ một số chức quan trọng.
các triều đại phong kiến trung quốc đã áp dụng chính sách cai trị ở nước ta như thế nào?Chính sách nào là thâm độc nhất?Vì sao?Cách chính sách vơ vét,bốt lột kinh tế của các triều đại phong kiến phương Bắc đã để lại hậu quả gì cho đất nước ta bấy giờ?
* Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với nhân dân ta trong thời kì Bắc thuộc vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt:
- Bắt nhân dân ta đóng nhiều thứ thuế vô lí, bắt nhân dân cống nộp sản vật quý hiếm như: ngà voi, đồi mồi,…
- Bắt những người thợ thủ công giỏi, khéo tay về nước.
- Đưa người Hán sang sống chung với người Việt để “thuần hóa” người Việt. Bắt dân ta theo phong tục tập quán của người Hán, học chữ Hán,...
- Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta,...
⟹ Những chính sách vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt.
* Chính sách thâm hiểm nhất: là muốn đồng hóa dân tộc ta về mọi mặt, biến nước ta trở thành một quận, huyện của chúng.
Câu 1: Ai là người đã nhường ngôi cho Trần Cảnh để mở ra triều đại nhà Trần?
Câu 2: Nước ta cuối thời Trần có những biểu hiện suy tàn như thế nào?
Câu 3: Nhà Hậu Lê cho vẽ và soạn Bộ luật Hồng Đức để làm gì?
Câu 4: Thời Hậu Lê, tác phẩm “ Đại hành toán pháp” là của ai?
Câu 5: Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là gì?
Câu 6: Điền các từ ngữ: (quần thể, sáng tạo, di sản, kiến trúc) vào chỗ trống của các câu ở đoạn văn sau cho thích hợp:
Kinh thành Huế là một ……………….. các công trình …………………. và nghệ thuật tuyệt đẹp. Đây là một …………………. văn hóa chứng tỏ sự tài hoa và ……………….. của nhân dân ta.
Câu 7: Ý nào dưới đây không phải là điều kiện để đồng bằng Nam Bộ trở thành vựa lúa, vựa trái cây lớn nhất cả nước?
Câu 8: Các dân tộc chủ yếu nào sống ở đồng bằng Nam Bộ?
Câu 9: Thành phố Huế thuộc tỉnh nào?
Câu 10: Những loại đất nào có nhiều ở đồng băng Nam Bộ?
Câu 11: Ở đồng bằng duyên hải miền Trung:
Câu 12: Điền các từ ngữ: (Kiên Giang, hải sản, nuôi trồng, ven biển) vào chỗ trống của các câu ở đoạn văn sau cho thích hợp:
Vùng biển nước ta có nhiều ………………………. quý. Ngành đánh bắt và ………………….. hải sản phát triển khắp các vùng biển. Nơi đánh bắt nhiều hải sản nhất là là các tỉnh ……………………… từ Quảng Ngãi tới ……………………..
Câu 13: Nhà Hậu Lê đã làm gì để khuyến khích việc học tập?
Câu 14: Em hãy nêu vai trò của Biển Đông đối với nước ta
TK:
Câu 1. Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11 dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông.
Câu 2.Nhiều năm xảy ra lụt lội, mất mùa, cuộc sống của nhân dân càng thêm cơ cực. => Nhiều cuộc nổi dậy đấu tranh. Trong triều, một số quan lại cũng bất bình. Chu Văn An dâng sớ xin chém 7 tên quan đã lấn át quyền vua, coi thường phép nước.
Câu 3.- Việc vẽ bản đồ và ban hành bộ luật Hồng Đức có tác dụng giúp vua Lê cai quản đất nước, phát triển kinh tế và ổn định xã hội. - Bộ luật Hồng Đức đề cao ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và phần nào tôn trọng quyền lợi và địa vị của người phụ nữ.
Câu 4. Lương Thế Vinh
Câu 5.Ngày 25/11 năm Mậu Thân (22/12/1788), trên đất Phú Xuân đã diễn ra một sự kiện trọng đại: Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Quang Trung.
Câu 6 .
Kinh thành Huế là một quần thể các công trình kiến trúc và nghệ thuật tuyệt đẹp. Đây là một di sản văn hóa chứng tỏ sự tài hoa và sáng tạo của nhân dân ta.
Câu 7 .C. Có nhiều đất chua, đất mặn
Câu 8 . Chăm và Kinh
Câu 9. Thừa Thiên Huế
Câu 10.đất mặn , đất phèn , đất phù sa
Câu 11. ĐỀ THIẾU
Câu 12 .
Vùng biển nước ta có nhiều hải sản quý. Ngành đánh bắt và nuôi trồng hải sản phát triển khắp các vùng biển. Nơi đánh bắt nhiều hải sản nhất là là các tỉnh ven biển từ Quảng Ngãi tới Kiên Giang
Câu 13 .
- Để khuyến khích việc học tập, nhà Hậu Lê đã đặt ra lễ xướng danh (lễ đọc tên người đỗ), lễ vinh quy (lễ đón rước người đỗ cao về làng) và khắc tên tuổi những người đỗ cao (tiến sĩ) vào bia đá dựng ở Văn Miếu để tôn vinh. Câu 14 .
Cung cấp tài nguyên khoáng sản, thủy sản, phát triển du lịch và xây dựng cảng biển.
- Là cơ sở để khẳng định chủ quyền của nước ta đối với với vùng biển và thềm lục địa quanh đảo, là hệ thống tiền tiêu bảo vệ đất nước.
Các triều đại phương Bắc cho người Hán nắm quyền cai trị nước ta đến cấp Huyện nhằm mục đích gì?
A. Các triều đại phương Bắc muốn được trực tiếp cai quản các huyện.
B. Các triều đại phương Bắc muốn thắt chặt bộ máy cai trị đối với nước ta và hạn chế các cuộc nổi dậy của nhân dân ta.
C. Các triều đại phương Bắc muốn chung sức cùng người Việt trong việc quản lí đất nước.
Nhà Hậu Lê đã làm gì để cai quản đất nước ?
- ......................................................................
-.......................................................................
-.......................................................................
-.......................................................................
-.......................................................................
-.......................................................................
- Để quản lí nhà nước, nhà Hậu Lê, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông đã cho vẽ bản đồ đất nước, gọi là bản đồ Hồng Đức và soạn bộ luật Hồng Đức để bảo vệ chủ quyền của dân tộc và trật tự xã hội.
- Bộ máy nhà nước được tổ chức như thế nào?
- Bộ máy nhà nước thời Trần được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền gồm có 3 cấp: nêu cụ thể vào….
- Ở triều đình: …..
- Các cức đại thần, văn võ phần lớn do họ Trần nắm giữ.
- Nhà Trần đặt thêm 1 số cơ quan như:…….
Và các cơ quan đó..
- Cả nước được chia làm 12 lộ…- Bộ máy nhà nước được tổ chức như thế nào?
- Bộ máy nhà nước thời Trần được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền gồm có 3 cấp: nêu cụ thể vào….
- Ở triều đình: …..
- Các cức đại thần, văn võ phần lớn do họ Trần nắm giữ.
- Nhà Trần đặt thêm 1 số cơ quan như:…….
Và các cơ quan đó..
- Cả nước được chia làm 12 lộ…
1 Khi quân Mông Cổ kéo vào Thăng Long, vua Trần đã chỉ đạo nhân dân Thăng Long thực hiện chủ trương ?
2 Trước nguy cơ đất nước bị quân Mông Cổ xâm lược, triều đình nhà Trần đã?
3 Một chế độ đặc biệt chỉ xuất hiện trong triều đại nhà Trần, đó là?
4 Triều đại phong kiến ở nước ta tiếp nối nhà Lý là
5 Năm 1010, Lý Công Uẩn đã dời đô từ Hoa Lư về
6 Tướng giặc nhà Nguyên chỉ huy cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai và lần thứ ba là
7 Thời Trần, quân đội được tuyển chọn theo chủ trương “quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông” có nghĩa là
1. Thực hiện kế sách " Vườn Không Nhà Trống "
2. Kiên quyết chống giặc và tích cực chuẩn bị kháng chiến.
3. Chế độ Thái thượng hoàng
4. Nhà Trần
5. Đại La
6. Trần Quốc Tuấn
7.Lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông là không cần phải có đông quân lính, chỉ cần có tài năng và tinh nhuệ.
1: Thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống
2: đã tính trước những phương án phòng ngự và phản công trước quân Mông Cổ
Trong tác phẩm “Lịch sử nước ta” (1941), Hồ Chí Minh đã viết về nhà Trần:
Đời Trần văn giỏi võ nhiều
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh
Vậy nhà Trần được thành lập như thế nào? Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước Đại Việt thời Trần ra sao?
* Sự thành lập Nhà Trần
- Từ cuối thế kỉ XII, nhà Lý ngày càng suy yếu (Chính quyền không còn chăm lo đến đời sống nhân dân , vua quan ăn chơi, lụt lội, hạn hán, mất mùa liên tiếp, đời sống nhân dân khở cực…)
- Năm 1224, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi.
- Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh
=> Nhà Trần thành lập.
* Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước Đại Việt thời Trần
- Chính trị: tổ chức bộ máy nhà nước theo chế độ trung ương tập quyền (có chế độ Thái Thượng hoàng); ban hành “Quốc triều hình luật”; quân đội được củng cố trang bị vũ khí, tập luyện võ nghệ,…
- Kinh tế: nhà nước luôn quan tâm phát triển kinh tế.
- Xã hội: ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện hơn trước.
- Văn hóa: phát triển trên tất cả các lĩnh vực (tư tưởng, tôn giáo, văn học, giáo dục, khoa học – kĩ thuật; kiến trúc và điêu khắc,…)
từ thế kỉ 1 đến thế kỉ 6 các triều đại phong kiến phương Bắc đã đặt ách cai trị lên đất nước ta như thế nao? Theo em chính scahs nào thâm hiểm nhất? Vì sao?
chính sách đồng bộ dân ta để dễ bề thống trị bắc đã đưa dân TQ qua sống học phong tục tập quán của họ dạy chữ Hán
Chính sách cai trị của bọn đỏ hộ đối với nhân dân ta vô cùng tàn bạo, chia lại đơn vị hành chính, cử quan lại người Hán cai trị tới cấp huyện, tiến hành bóc lột dã man bằng các loại thuế và lao dịch nặng nề, vơ vét tài nguyên bằng cách bắt cống nộp, đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Thâm hiểm nhất là chính sách đồng hoá dân ta về mọi mặt hòng xoá bỏ dân tộc ta...
Em có đánh giá như thế nào về sự chuyển giao triều đại từ nhà Lý sang nhà Trần?
tham khảo
Giang sơn Đại Việt chuyển từ nhà Lý sang nhà Trần
Tác giả: Hồ Bạch Thảo
Vào cuối năm 1210, Vua Cao Tông không khỏe, lập Thái tử Sảm lên kế vị, miếu hiệu là Huệ Tông. Nhà Vua tôn mẹ Đàm thị làm Hoàng thái hậu, sai đón vợ là người con gái họ Trần về làm Hoàng hậu:
“Mùa đông, tháng 10, năm Trị Bình Long Ứng thứ 6 [1210], vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu vào nhận mệnh ký thác. Ngày 28 Nhâm Ngọ, vua băng ở cung Thánh Thọ.
Hoàng thái tử Sảm lên ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới 16 tuổi. Tôn mẹ là Đàm thị là Hoàng thái hậu, cùng nghe chính sự. Lại đem thuyền rồng đi đón Trần thị. Anh Trần thị là Trần Tự Khánh cho rằng bấy giờ đương lúc loạn lạc, chưa đưa đi ngay được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Năm sau Vua chọn niên hiệu là Kiến Gia năm thứ nhất, đón Hoàng hậu họ Trần về, phong cho người anh Hoàng hậu là Trần Tự Khánh làm Chương thành hầu:
“Ngày Tân Mùi, mùa xuân, tháng giêng năm Kiến Gia thứ 1 [1211], đổi niên hiệu. Tháng 2, vua lại sai Phụng ngự là Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn sai bọn Phùng Tá Chu đưa Trần thị đi. Gặp khi Tô Trung Từ và Đỗ Quảng đang đánh nhau ở bến Triều Đông [bến phía đông thành Hà Nội], Tá Chu bèn đỗ thuyền ở bến Đại Thông. Đến khi Đỗ Quang bị thua, vua sai Bố và Trung Từ đón Trần thị vào cung, lập làm nguyên phi; cho Trung Từ làm Thái uý phụ chính; phong Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Triều Tống nhận được tin Vua Cao Tông mất, sai Sứ sang điếu tế, và phong Vua Lý Huệ Tông tước An Nam Quốc vương, giống như Vua cha:
“Năm Gia Định thứ 5 [1212] Long Cán mất, chiếu sai Vận phán Quảng Tây Trần Khổng Thạc làm Điếu tế sứ, đặc cách tặng chức Thị trung. Y theo chế độ đối với Quốc vương An Nam trước kia, người con là Hạo Sam thế tập, được phong như Long Cán lúc mới lên ngôi, vẫn được ban chức Thôi thành thuận hoá công thần. Sau đó không thấy biểu cảm tạ, nên kém việc gia ân.”[1] Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.
Bấy giờ trong nước giặc giã nổi lên, nhà Vua suy nhược, quan phụ chính Đàm Dĩ Mông thì bất tài, nên chính sự trở nên đổ nát:
“Năm Kiến Gia thứ 1 [1211], Bấy giờ thừa hưởng thái bình đã lâu ngày, giường mối dần bỏ, dân không biết việc binh, giặc cướp nổi lên không ngăn cấm được. Vua mới lên ngôi, đem việc nước giao cho Thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Nhà Vua sai người thân là Đoàn Thượng chiêu mộ dân đinh đi đánh giặc, Thượng tự tiện làm càn, bị bắt rồi trốn thoát; sau đó xây thành tại Hồng Châu [Hải Dương] làm loạn:
“Mùa xuân, tháng 2 năm Kiến Gia thứ 2 [1212], sai người cùng một vú nuôi là Đoàn Thượng chiêu mộ dân châu Hồng đi bắt giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khốn, Đoàn Thượng thừa thế tự tiện làm oai làm phúc, không ai dám nói gì. Sau tội trạng tỏ rõ, bị các quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới rút gươm, cởi trần chạy về châu Hồng, nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể ngăn được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Kinh thành lúc bấy giờ không được yên ổn, vào năm sau [1213] Trần Tự Khánh xin đón xa giá, nhà Vua nghi ngờ xuống chiếu mang quân đi bắt Tự Khánh; giáng Hoàng hậu họ Trần, em Khánh, làm Ngự nữ:
“Ngày Quý Dậu tháng 2 năm Kiến Gia thứ 3 [1213], Trần Tự Khánh đem quân xâm phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Vua lấy làm ngờ, xuống chiếu lấy quân các đạo đi bắt Tự Khánh, giáng nguyên phi làm Ngự nữ.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Trần Tự Khánh lại đến đón xa giá thêm 2 lần nữa, nhà Vua vẫn chưa tin; tiếp tục trốn tránh:
“Ngày Giáp Tuất tháng giêng năm Kiến Gia thứ 4 [1214], Trần Tự Khánh đem quân đến bến Triều Đông, tự vào quân môn tạ tội, lại xin đón xa giá. Vua càng ngờ, bèn cùng với thái hậu và ngự nữ chạy đến núi Trĩ Sơn ở châu Lạng [Lạng Sơn]. Tự Khánh nghe tin xa giá long đong mà ngự nữ thì lâu nay bị thái hậu làm khổ, lại đem quân đến xin đón xa giá như trước. Vua cũng chưa tin, lại cùng với thái hậu và ngự nữ chạy sang huyện Binh Hợp.
Mùa hạ, tháng 5, Tự Khánh đánh Đinh Khả và Bùi Đô ở châu Đại Hoàng [tây Nam Định], phá tan được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4
Sau khi Trần Tự Khánh mang quân dẹp được bọn giặc Đinh Khả và Bùi Đô khiến nhà Vua có phần tin tưởng; lại nhân Thái hậu rắp tâm giết Phu nhân họ Trần, người Vua thương yêu, nên nhà Vua tự nguyện đi tìm Tự Khánh để được phò giúp:
“Mùa xuân năm Kiến Gia thứ 6 [1216], sách phong ngự nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ phu nhân mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới ngăn lại. Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nữa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chổ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghĩ lại ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Vua mới đỗ lại ở bãi Cửu Liên. Truyền cho Tự Khánh đến chầu.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Sau khi Phu nhân sinh Công chúa, nhà Vua tái phong Phu nhân làm Hoàng hậu, rồi phong cho 2 người anh ruột Hoàng hậu là Trần Tự Khánh, và Trần Thừa làm quan to. Hai người lo xếp đặt quân ngũ, đánh bại quân Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp phá châu Nghệ An:
“Mùa hạ, tháng 6 năm Kiến Gia thứ 6 [1216], hoàng trưởng nữ sinh ở bãi Cửu Liên, sau phong làm công chúa Thuận Thiên.
Mùa đông, tháng 12, sách phong Thuận Trinh phu nhân làm hoàng hậu, phong Tự Khánh là Thái uý phụ chính, cho anh trai Tự Khánh là Trần Thừa (tức Thượng hoàng nhà Trần) làm Nội thị phán thủ. Tự Khánh cùng với Thượng tướng quân Phan Lân xếp đặt quân ngũ, chế tạo binh khí, luyện tập võ nghệ, quân thế dần dần phấn chấn.
Vua có bệnh trúng phong, chữa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử, trong cung chỉ sinh công chúa mà thôi.”
Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, châu bá là Lý Bất Nhiễm đánh phá được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4
Bấy giờ nhà Vua bị bệnh tâm thần, không điều hành được việc nước, nên quyền lực dần dần chuyển về tay họ Trần:
“Ngày Đinh Sửu, Mùa xuân, tháng 3 năm Kiến Gia thứ 7 [1217], vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ, khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay kẻ khác.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Vào năm 1218, Công chúa thứ 2 ra đời, đặt tên là Chiêu Thánh, sau được Vua nhường ngôi, tức Lý Chiêu Hoàng. Cũng vào năm này ra lệnh bắt viên Cư sĩ chùa Phù Đổng[2] Nguyễn Nộn, gây nên mối loạn kéo dài mãi đến hơn 10 năm sau; Trần Tự Khánh mang quân đánh dân tộc thiểu số tại huyện Chương Mỹ, Hà Tây, nhưng không dẹp được. Riêng tại Nghệ An; Chiêm Thành và Chân Lạp mang quân đến đánh phá lần thứ hai, đều bị Bá trưởng Lý Bất Nhiễm đánh tan:
“Ngày Mậu Dần mùa thu, tháng 8 năm Kiến Gia thứ 8 [1218], xuống chiếu bắt cư sĩ ở chùa Phù Đổng [Từ Sơn, Bắc Ninh] là Nguyễn Nộn, vì bắt được vàng ngọc mà không đem dâng.
Tháng 9, hoàng thứ nữ sinh, sau phong làm công chúa Chiêu Thánh. Mùa đông, tháng 10, Trần Tự Khánh đi đánh người Man ở Quảng Oai [huyện Chương Mỹ, Hà Tây] không dẹp được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
“Lý Bất Nhiễm giữ chức bá trưởng châu Nghệ An. Năm Kiến Gia thứ 6 (1216), Chiêm Thành và Chân Lạp vào cướp, Bất Nhiễm đã đánh bại rồi; đến đây lại đánh được lần nữa. Vì có công như thế, Bất Nhiễm được phong tước hầu, ban thái ấp, được hưởng lộc đúng với thực số 1.500 hộ.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 5.
Trần Tự Khánh xin tha cho Nguyễn Nộn, rồi sai đi đánh giặc tại Quảng Oai. Sau đó Nộn mang quân về giữ đất Phù Đổng, tự xưng Vương, lại xin mang quân xin đi đánh giặc chuộc tội, thế lực ngày một lớn triều đình không chế ngự được:
“Ngày Kỷ Mão tháng 2 năm Kiến Gia thứ 9 [1219], Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
“Ngày Canh Thìn tháng 3 năm Kiến Gia] năm thứ 10 [1220], Nguyễn Nộn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh phong, không thể chế ngự được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Nhà Vua bị bệnh nặng, triều đình lo tìm thầy thuốc giỏi khắp nơi để trị bệnh nhưng không hiệu nghiệm; bên ngoài thì giặc cướp khắp nơi, khiến dân chúng rất cực khổ:
“Ngày Tân Tỵ tháng giêng năm Kiến Gia thứ 11 [1221], tìm khắp thầy thuốc trong nước để chữa bệnh cho vua, nhưng không hiệu nghiệm gì. Vua thì ở tít trong cung, giặc cướp bừa bãi, nhân dân ở ngoài thành lưu ly cực khổ lắm.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Đối phó với loạn lạc, cho làm thêm ghe thuyền và đúc thêm binh khí; bấy giờ đất nước được chia thành 24 lộ, bèn đem chia cho các Công chúa:
“Ngày Nhâm Ngọ tháng 2 năm Kiến Gia thứ 12 [1222], chia trong nước làm 24 lộ, lộ chia cho công chúa ở, lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân bản lộ, chia nhau làm giáp. Làm đồ binh khí và ghe thuyền để tuần bắt giặc cướp.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Vào năm 1223 Trần Tự Khánh mất, dùng người anh là Trần Thừa làm Phụ quốc thái úy, quyền lực lớn vào chầu không phải xưng tên. Bên ngoài thì thế lực giặc Nguyễn Nộn ngày mỗi mạnh, dân đói khổ vì thiên tai hạn hán và nạn sâu keo:
“Ngày Quý Mùi tháng 10 năm Kiến Gia thứ 13 [1223], hạn hán, lúa bị sâu cắn. Tháng 12, thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Trần Tự Khánh chết, truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý, khi vào chầu không xưng tên.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Riêng về mặt quân sự, ủy cho người em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Độ nắm hết quyền lực. Tháng 10 năm Kiến Gia thứ 14 [1224], xuống chiếu truyền ngôi Vua cho Công chúa Chiêu Thánh; cũng vào tháng này đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ nhất, tôn hiệu là Chiêu Hoàng. Riêng nhà Vua thì xuất gia, trụ trì tại chùa Chân Giáo trong thành:
“Năm Kiến Gia thứ 14 [1224], (Từ tháng 10 về sau là niên hiệu của Chiêu Hoàng Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Gia Định năm thứ 17). Bệnh của vua ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình.
Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu Hoàng.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Lý Chiêu Hoàng tên huý là Phật Kim, sau đổi là Thiên Hinh, con gái thứ của Huệ Tông. Huệ Tông không có con trai nối dõi, lập nàng làm Hoàng thái tử để truyền ngôi, ở ngôi được 2 năm [1224-1225] rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Bấy giờ Cảnh tuổi còn nhỏ tuổi, nên các quan mời người cha là Trần Thừa nhiếp chính:
“Ngày Ất Dậu tháng 10 năm Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 [1125], xuống chiếu tuyển con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như lục hỏa thị cung ngoại, Chi hậu Nội nhân thị nội,[3] ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu. Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Cháu gọi Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục cục chi hậu,[4] Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ (Cảnh sau là Trần Thái Tông). Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói:
‘Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?’.
Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói:
‘Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh’.
Chiêu Hoàng cười và nói:
‘Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó’.
Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng:
‘Bệ hạ đã có chồng rồi’.
Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng:
‘Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói “Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay!”
Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết’.
Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân.
Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng,[5] sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói:
‘Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thựợng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn[6] cũng chưa dẹp yên. Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi, mới uỷ thác cho Nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang’.
Các quan đều cho là phải, mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chính.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.
Sử Trung Quốc, Tục Tư Trị Thông Giám và Tống Sử cũng chép tương tự, nhưng vắn tắt hơn:
“Tục Tư Trị Thông Giám, quyển 159. Ngày Quí Dậu tháng 5 Tống Ninh Tông năm Gia Định thứ 5 [28/6/1212], Vương nước An Nam Lý Long Cán mất, con là Hạo Sam nối ngôi; đến lúc chết không có con trai, cho con gái là Chiêu Thánh làm chủ nước. Người rể là Trần Nhật Cảnh được nhường ngôi. Họ Lý từ Công Uẩn truyền đến 8 đời, hơn 220 năm.”[7]
“Hạo Sam mất, không có con trai; cho con gái Chiêu Thánh làm chủ việc nước, rồi người rể Trần Nhật Cảnh giành được ngôi. Họ Lý có được nước từ Công Uẩn đến Hạo Sam, truyền ngôi 8 lần, được hơn 220 năm thì mất”[8] Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.
—————–
[1] 嘉定五年,龍榦卒。詔以廣西運判陳孔碩充弔祭使,特贈侍中。依前安南國王制,以其子昊旵襲封其爵位,給賜如龍榦始封之制,仍賜推誠順化功臣。其後謝表不至,遂輟加恩。
[2] Phù Đổng: nay là xã Phù Đổng, thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
[3] Lục hỏa thị cung ngoại: sáu hỏa có lẽ là sáu đội lính hầu ngoài cung; Chi hậu, Nội nhân thị nội: các chức chi hậu và nội nhân hầu bên trong.
[4] Cận thị thự lục cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu cục của cận thị thự là thự giữ việc hầu cận vua.
[5] Thiện Hoàng: Hoàng đế được nhường ngôi.
[6] Đại Viễn: Cương Mục chép là Đại Hoàng, tên một châu thuộc phía tây Nam Định.
[7] 癸酉,安南國王李龍幹 卒,子昊旵嗣;尋卒,無子,以女昭聖主國事,其婿陳日煚因襲取之。李氏自公蘊八傳,凡二百二十餘年。
[8] 昊旵卒,無子,以女昭聖主國事,遂爲其婿陳日煚所有。李氏有國,自公蘊至昊旵,凡八傳,二百二十餘年而國亡。