Tên gọi Thăng Long – Hà Nội qua các thời kì (từ thế kỷ X đến thế kỉ XIX)?
Giới thiệu những hiểu biết của em về một danh nhân văn hóa của Hà Nội mà em thích.
Kể tên các danh nhân văn hóa xuất sắc của dân tộc thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Em thích vị danh nhân nào ? Hãy giới thiệu hiểu biết của em về nhân vật đó.
các vị danh nhân văn hóa xuất sắc: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông),....
em thích vị danh y Hải Thượng Lãn Ông nhất vì ông là người thầy thuốc có uy tín lớn ở thế kỉ XVIII. thông cảm sâu sắc với cuộc sống cực khổ của nhân dân, ông đã dày công nghiên cứu các sách thuốc thời xưa, kết hợp với kinh nghiệm chữa bệnh truyền thống nên đã phát hiện thêm công dụng của 305 vị thuốc nam và thu nhập được 2854 phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ông có cống hiến xuất sắc vào nền y học và dược học dân tộc, đặc biệt là bộ sách hải thượng y tông tâm lĩnh(66 quyển)
Qua việc tìm hiểu các di sản văn hóa vật thể tiêu biểu ở Hà Nội từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X ( em hãy viết một đoạn văn ngắn 20 dòng ) môt tả vật chất và tinh thần của người Hà Nội trong giai đoạn này.
Lựa chọn một trong hai nhiệm vụ dưới đây:
1. Hãy sưu tầm tư liệu và giới thiệu cho các bạn về một nhân vật hoặc một di tích lịch sử, văn hóa của Thăng Long - Hà Nội mà em yêu thích.
2. Hãy viết một đoạn văn thể hiện niềm tự hào của em về truyền thống lịch sử, văn hóa của Thăng Long - Hà Nội.
THAM KHẢO
Lựa chọn: thực hiện nhiệm vụ 1
(*) Tham khảo: giới thiệu về Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay thuộc địa bàn quận Đống Đa và Ba Đình, thành phố Hà Nội. - Theo tư liệu lịch sử, năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa tế tự và cho Hoàng thái tử đến học. Năm 1076, triều đình lại cho lập Quốc Tử Giám. Năm 1253 (đời Trần), đổi tên Quốc Tử Giám thành Quốc Tử viện. Đến đời Lê (năm 1483), đổi tên Quốc Tử viện thành Thái Học đường. Thời Nguyễn, khu vực này được đổi thành Văn Miếu Hà Nội. - Trải qua thời gian gần 1000 năm, các công trình kiến trúc của di tích có sự thay đổi nhất định. Hiện nay, di tích còn bảo tồn được một số hạng mục kiến trúc thời Lê và thời Nguyễn. Khu nhà Thái Học mới được Nhà nước phục dựng năm 1999 - 2000. - Dựa vào công năng kiến trúc, có thể chia di tích thành hai khu vực chính: Văn Miếu (nơi thờ tự tiên Nho) và Quốc Tử Giám (trường đào tạo trí thức Nho học). - Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, năm 1962, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng Văn Miếu- Quốc Tử Giám là Di tích quốc gia; ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di tích quốc gia đặc biệt.
1/ Hà Nam từ thế kỉ x đến hết thế kỉ XIX thuộc trấn nào?
2/ Huyện Thanh Liêm thuộc Phủ nào
3/ xã em thuộc huyện nào
4/ Hà Nam đã đóng góp cho các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ x đến đầu thế kỉ xx.
5/ Kể tên các danh nhân của Hà Nam. Trong số các danh nhân đó em thích nhất danh nhân nào? Tại sao.
Giúp mình với
chia câu hỏi ra đi @đường tam
1/ Hà Nam từ thế kỉ x đến hết thế kỉ XIX thuộc trấn nào?
2/ Huyện Thanh Liêm thuộc Phủ nào3/ xã em thuộc huyện nào?
4/ Hà Nam đã đóng góp cho các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ x đến đầu thế kỉ xx.
5/ Kể tên các danh nhân của Hà Nam. Trong số các danh nhân đó em thích nhất danh nhân nào? Tại sao.
Giúp mình với
Đọc trước văn bản Thăng Long - Đông Đô – Hà Nội: Một hằng số văn hóa Việt Nam, tìm hiểu lịch sử, ý nghĩa của các tên gọi “Thăng Long”, “Đông Đô”, “Hà Nội” và thông tin về nhà sử học Trần Quốc Vượng.
* Thăng Long:
- Ý nghĩa: Thăng Long, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, “Long” có nmghiax là “Rồng”. Được ghi trong Đại Việt sử ký, không chỉ là “Rồng bay lên”, mà còn có nghĩa “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam.
- Lịch sử: Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội đã có tổng cộng 16 tên gọi cả tên chính quy và tên không chính quy, như: Long Đỗ, Tống Bình, Đại La, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh, Bắc Thành, Hà Nội, Tràng An, Phượng Thành, …
* Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô” (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.
* Hà Nội: So với tên gọi Thăng Long với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử (dù chỉ đưới dạng truyền thuyết: ghi lại sự kiện có rồng hiện lên khi Vua tới đất Kinh đô mới), thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý, với nghĩa “bên trong sông”. Nhưng nếu xét kỹ trên bản đồ thì chỉ có Sông Nhị là địa giới Tỉnh Hà Nội cũ về phía Đông, còn Sông Hát và Sông Thanh Quyết không là địa giới, như vậy có bộ phận Tỉnh Hà Nội không nằm bên trong những con sông này. Và khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, tên gọi lại càng không tương xứng với thực địa.
Trung văn đại từ điển, tập 19 (Đài Bắc 1967, tr.103) cho biết Hà Nội là tên một quận được đặt từ đời Hán (202 Tr.CN - 220 S.CN) nằm phía Bắc Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên (hạng Vũ Kỷ), kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”. Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị. Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ (thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức), cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử (Lương Huệ Vương, thượng, 3) “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”. Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.
Qua việc tìm hiểu các di sản văn hóa vật thể tiêu biểu ở hà nội từ thời nguyên thủy dến thế kỉ x,em hãy viết một doạn văn ngắn mô tả đời sống vật chất và tinh thần của người hà nội trong giai đoạn này:
(giúp mik ik mn,mik đang cần gấp)
trình bày ý nghĩa của các di sản văn hóa phi vật thể ở Hà Nội giới thiệu một di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội mà em yêu thích
Các loại hình di sản văn hoá phi vật thể ở thành phố Hà Nội mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là những sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng và không gian văn hoá, có giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học. Chúng thể hiện bản sắc độc đáo của cộng đồng và được truyền miệng, truyền nghề và trình diễn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Di sản văn hoá phi vật thể đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và tôn vinh sự đa dạng văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng tăng nhanh.
Các loại hình di sản văn hoá phi vật thể ở Hà Nội bao gồm nhã nhạc cung đình Huế, cồng
Kể tên một số danh nhân Hà Nội từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20
Nguyễn Du (1766-1820): Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, tác giả của "Truyện Kiều" - một trong những tác phẩm văn học lớn nhất của Việt Nam.
Phan Đình Phùng (1847-1895): Nhà cách mạng, tướng lĩnh quân đội, đã lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp.
Hồ Chí Minh (1890-1969): Nhà cách mạng, nhà lãnh đạo của Việt Nam, đã đưa ra Tuyên ngôn độc lập và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Võ Nguyên Giáp (1911-2013): Tướng quân đội, nhà chiến lược, đã lãnh đạo quân đội Việt Nam trong nhiều cuộc chiến tranh, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ.