Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thị Phương
Xem chi tiết
Nhii Yoonaddict
Xem chi tiết
Nguyễn Hải Anh Jmg
30 tháng 7 2016 lúc 23:55



 



- Phạm vi hoạt động: rộng lớn, diễn ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu là Trung, Bắc Kì, về sau chuyển về vùng trung du, miền núi.

- Lãnh đạo: gồm các văn thân sĩ phu yêu nước.

- Mục tiêu chung: đánh Pháp, giành lại độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, lập lại chế độ phong kiến.

- Lực lượng tham gia: các văn thân sĩ phu yêu nước và nông dân, đồng thời có các tộc người thiểu số.

- Hình thức đấu tranh: khởi nghĩa vũ trang.

- Kết quả: phong trào kéo dài hơn 10 năm, gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng cuối cùng đã thất bại.
-Ý nghĩa:+ Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động sự ủng hộ của đông đảo nhân dân; tranh thủ sự giúp đỡ mọi mặt của đồng bào.


+ Biết sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, khai thác sức mạnh tại chỗ, phát huy tính chủ động sáng tạo trong cách đánh, lối đánh của cuộc chiến tranh.
 


 

Bình luận (0)
Hoàng Văn Long
Xem chi tiết
Ntt Hồng
7 tháng 3 2016 lúc 16:07

Trào lưu dân tộc chủ nghĩa đầu thế kỉ XX ở nước ta là sự kế tục phong trào Cần vương yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX đồng thời đánh dấu bước phát triển mới của cuộc vận động giải phóng dân tộc ở nước ta, vì :

-Trong nửa sau thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam diễn ra liên tục. Lúc đầu là phong trào kháng chiến của quần chúng kết hợp với lực lượng quân đội chính quy của triều đình, tiếp theo là phong trào yêu nước khởi nghĩa vũ trang Cần Vương còn chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến. Thực chất đây là phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân nhằm đánh đổ Pháp và tay sai khôi phục lại nền độc lập dưới chế độ phong kiến.

-Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một chủ nghĩa quốc gia dân tộc với những cuộc vận động dân tộc- dân chủ của những tầng lớp xã hội mới. Tiêu biểu là Phan Bội châu, Phan Châu Trinh với các phong trào Đông Du, phong cải cách xã hội ở Bắc kỳ và Trung kỳ (như việc thành lập Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân ở Trung kỳ), phong trào chống thuế ở Trung kỳ 1908.... Đây là phong trào giải phóng dân tộc theo con đường dân chủ tư sản, nó kế tục phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX nhưng đồng thời cũng mang nhiều nét mới khác trước.

-Tầng lớp khởi xưởng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước tiến bộ. Họ là những nho sĩ được đào tạo trong nền khoa cử cũ nhưng đã chuyển biến theo tư tưởng mới của thời đại, tư tưởng " Duy tân”.

-Chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu văn thân thuộc phong trào Cần Vương trước kia nay đã chuyển thành chủ nghĩa dân tộc gắn liền với những tư tưởng dân chủ và mong muốn nước nhà đuổi kịp các quốc gia văn minh trên thế giới.

-Về hình thức và phương pháp đấu tranh: Không chỉ hạn chế trong những hình thức đấu tranh vũ trang như trước đây mà còn kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về chính trị, ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách sâu rộng trong đông đảo quần chúng.

Bình luận (0)
Đinh Tuấn Việt
7 tháng 3 2016 lúc 18:16

-Trong nửa sau thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam diễn ra liên tục. Lúc đầu là phong trào kháng chiến của quần chúng kết hợp với lực lượng quân đội chính quy của triều đình, tiếp theo là phong trào yêu nước khởi nghĩa vũ trang Cần Vương còn chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến. Thực chất đây là phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân nhằm đánh đổ Pháp và tay sai khôi phục lại nền độc lập dưới chế độ phong kiến
-Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một chủ nghĩa quốc gia dân tộc với những cuộc vận động dân tộc- dân chủ của những tầng lớp xã hội mới. Tiêu biểu là Phan Bội châu, Phan Châu Trinh với các phong trào Đông Du, phong cải cách xã hội ở Bắc kỳ và Trung kỳ (như việc thành lập Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân ở Trung kỳ), phong trào chống thuế ở Trung kỳ 1908.... Đây là phong trào giải phóng dân tộc theo con đường dân chủ tư sản, nó kế tục phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX nhưng đồng thời cũng mang nhiều nét mới khác trước.
-Tầng lớp khởi xưởng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước tiến bộ. Họ là những nho sĩ được đào tạo trong nền khoa cử cũ nhưng đã chuyển biến theo tư tưởng mới của thời đại, tư tưởng " Duy tân”
-Chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu văn thân thuộc phong trào Cần Vương trước kia nay đã chuyển thành chủ nghĩa dân tộc gắn liền với những tư tưởng dân chủ và mong muốn nước nhà đuổi kịp các quốc gia văn minh trên thế giới.
-Về hình thức và phương pháp đấu tranh: Không chỉ hạn chế trong những hình thức đấu tranh vũ trang như trước đây mà còn kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về chính trị, ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách sâu rộng trong đông đảo quần chúng

Bình luận (0)
Vy Nguyễn
Xem chi tiết
Nano Zero
11 tháng 11 2021 lúc 9:20

b nha

 

Bình luận (0)
Phạm Duy Quốc Khánh
11 tháng 11 2021 lúc 9:26

B

Bình luận (0)
Diệu Khương Nguyễn
Xem chi tiết
Phong Thần
5 tháng 2 2021 lúc 20:33

Cuối thế kỷ XIX, với danh nghĩa truyền giáo, các giáo sĩ người Pháp đã đặt chân lên vùng đất này, thực chất là mở đường, đặt cơ sở cho việc chinh phục Tây nguyên. Theo chân các giáo sĩ, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau khi thôn tính xong Nam Bộ, thực dân Pháp đã đẩy mạnh xâm chiếm Tây nguyên, từng bước thiết lập bộ máy cai trị trên đất Gia Lai. Từ đây, vùng đất Gia Lai chịu sự thống trị của chính quyền thực dân Pháp.

 

Sau khi chiếm Gia Lai, thực dân Pháp liên tục chia tách các tỉnh, các vùng dân cư ở khu vực Tây nguyên, tạo nên sự thay đổi về địa giới hành chính toàn vùng. Qua nhiều lần chia tách, sáp nhập, ngày 24/5/1932, theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, tỉnh Pleiku chính thức được thành lập gồm đại lý Pleiku và đại lý Cheo Reo.

 

Cho đến trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, tỉnh Pleiku gồm có thị xã Pleiku, huyện An Khê, huyện Pleikli, huyện Chư Ti và huyện Cheo Reo. Cư dân của tỉnh Pleiku lúc này chủ yếu là đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar và một số ít người Kinh. Tuy địa giới hành chính nhiều lần thay đổi nhưng tỉnh Pleiku vẫn được giữ nguyên tên gọi cho đến ngày giải phóng (17-3-1975).

 

Về phía chính quyền cách mạng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tên tỉnh được đổi thành Gia Lai. Ngày 15-4-1950, theo Nghị định số 07/NĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Kon Tum được sáp nhập vào Gia Lai thành tỉnh Gia -Kon. Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), tỉnh Gia - Kon được tách thành tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Tên tỉnh Gia Lai được giữ nguyên cho đến năm 1975. Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TƯ ngày 20-9-1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ cấp khu, hợp nhất tỉnh, tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum được hợp nhất thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Đến ngày 12-8-1991, theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII, tỉnh Gia Lai - Kon Tum được chia tách thành   tỉnh Gia Lai và Kon Tum.

Phát huy tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, bất khuất trước kẻ thù, ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên Tây Nguyên, nhân dân các dân tộc Gia Lai đã liên tiếp nổi dậy, bền bỉ đấu tranh chống xâm lược và chính sách cai trị của thực dân, phong kiến.

 

Lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương đã ghi nhận phong trào đấu tranh kiên cường, bất khuất từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX của đồng bào dân tộc Gia Lai đã khiến thực dân Pháp phải lo sợ. Các cuộc nổi dậy đấu tranh vũ trang của nhân dân Gia Lai trước khi có Đảng diễn ra liên tục, kéo dài. Và, tuy bị đàn áp nhưng tinh thần yêu nước, vùng lên chống thực dân, phong kiến của nhân dân vẫn không hề suy giảm.

 

Năm 1930, Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đường lối giải phóng dân tộc của Đảng và phong trào cách mạng trong cả nước đã ảnh hưởng sâu sắc đến Gia Lai thông qua những đảng viên cộng sản từ miền xuôi lên hoạt động tại các đồn điền. Từ đây, tuy vẫn còn mang tính tự phát nhưng phong trào đấu tranh của công nhân, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đảng, của phong trào cách mạng trong cả nước .

 

Năm 1945, cùng với khí thế sục sôi của Cách mạng tháng Tám trong cả nước, thực hiện chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện địa phương chưa có tổ chức Đảng cộng sản, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đoàn thanh niên yêu nước Gia Lai (thành lập tháng 4-1945). Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền mở ra khả năng to lớn cho việc tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước trong các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh thành lực lượng cách mạng hùng hậu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Thắng lợi đó đã mở ra thời kỳ mới trong lịch sử phong trào cách mạng Gia Lai, là tiền đề trực tiếp cho việc thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Gia Lai tháng 12-1945 và những thắng lợi to lớn, vẻ vang sau này.

 

Chưa bao lâu sau ngày giành được chính quyền, thực dân Pháp lại dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Đất nước Việt Nam đứng trước nguy cơ thù trong giặc ngoài, trong khi chính quyền cách mạng mới thành lập còn non trẻ, lực lượng cách mạng chưa phát triển và chưa đều khắp. Những thành quả mà nhân dân vừa mới giành được đang bị đe dọa. Do vậy, yêu cầu cấp bách, trước mắt và lâu dài lúc này ở Gia Lai là phải có một tổ chức Đảng để lãnh đạo nhân dân các dân tộc đấu tranh củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, gấp rút chuẩn bị các điều kiện để kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

 

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, với sự lãnh đạo tích cực của Xứ ủy Trung kỳ và Việt Minh Trung bộ, ngày 01-10-1945, chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương đầu tiên chính thức được thành lập tại thị xã Pleiku và tiếp sau đó, các chi bộ đảng ở An Khê, Bàu Cạn, Biển Hồ và trong Chi đội Tây Sơn... lần lượt được thành lập với tổng số 24 đảng viên. Sự ra đời của các chi bộ cộng sản đã đánh dấu mốc quan trọng trong bước phát triển mới của phong trào cách mạng địa phương. Tuy nhiên, để có sự lãnh đạo thống nhất và tập trung của các tổ chức đảng, ngày 10-12-1945, Đảng bộ Đảng cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai được thành lập, lấy tên là Đảng bộ Tây Sơn. Từ đây, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ.

 

Sau khi ra đời, Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo xây dựng, phát triển lực lượng, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ Gia Lai đã đề ra các chương trình hành động cách mạng, tập hợp và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và giành được những thắng lợi to lớn trên các mặt. Với việc phát triển nhanh lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng và mở rộng các khu căn cứ du kích, đảng bộ, quân và dân các dân tộc Gia Lai đã từng bước làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; tiến lên giải phóng và làm chủ phần lớn vùng nông thôn, góp phần cùng quân dân cả nước giành thắng lợi trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến, Đảng bộ từng bước trưởng thành và ngày càng lớn mạnh, nâng cao uy tín trong các tầng lớp nhân dân.

 

Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đoàn kết một lòng, bước vào cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ đầy gian khổ, hy sinh. Qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ và tay sai, với bản lĩnh cách mạng và kinh nghiệm quí báu được rút ra từ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ Gia Lai đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh phát huy truyền thống cách mạng, ý chí độc lập tự do, liên tiếp đánh bại các âm mưu, chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, cùng quân dân miền Nam giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Qua hai cuộc kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh; với khát vọng độc lập, tự do; với tình yêu buôn làng, quê hương, nhân dân các dân tộc Gia Lai đã sẵn sàng đứng lên làm cách mạng theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ. Trên vùng đất này, mỗi ngọn núi, con sông, mỗi con đường, bản làng... đều ghi đậm những chiến công oanh liệt của nhân dân và chiến sỹ Gia Lai. Những tên đất, tên làng đã thành tên của những chiến công lừng lẫy như làng kháng chiến Stơr, chiến khu Xóm Ké, xã chiến đấu Gia Hội... và những địa danh lịch sử như chiến thắng Gim 100 tại đồi Đăk Pơ, chiến thắng Plei Me tại thung lũng Ia Drăng, chiến thắng đường 7 - sông Bờ... đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Những chiến công, tên tuổi những Anh hùng Đinh Núp, Wừu, Kpă Klơng, Kpuih Thu, Rơchăm Ơt, Puih San (A Sanh) ... đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc như một huyền thoại, không chỉ là niềm tự hào của riêng đồng bào Gia Lai mà còn là niềm tự hào, niềm kiêu hãnh của đồng bào các dân tộc Tây nguyên và của cả dân tộc Việt Nam.

THAM KHẢO Ở TRONG NÀY NHA!

 

 

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
27 tháng 6 2018 lúc 12:47

Đáp án B

Ngày 1-1-1959, chế độ độc tài Batixta sụp đổ, nước Cộng hòa Cuba ra đời. Chiến thắng của nhân dân Cuba đã cổ vũ cho nhân dân các quốc gia còn lại trong khu vực Mĩ Latinh giành độc lập. Từ các thập kỉ 60-70 của thế kỉ XX, các phong trào đấu tranh chống Mĩ và chế độ độc tài thân Mĩ giành độc lập ở khu vực ngày càng phát triển và giành nhiều thắng lợi.

=> cách mạng Cuba thắng lợi và nước Cộng hòa Cuba ra đời (1-1959) là sự kiện đánh dấu mốc cho bước phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ Latinh sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
2 tháng 10 2017 lúc 15:45

Đáp án: D

Giải thích: Mục…III bài 16….Trang…87...SGK Lịch sử 11 cơ bản

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
26 tháng 5 2018 lúc 11:31

B.

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
18 tháng 9 2017 lúc 10:31

Đáp án: B

Bình luận (0)