Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Cơ
Xem chi tiết
Trương Việt Bình
18 tháng 2 2016 lúc 8:43

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả 

Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Là sử thần đời Lê, ông đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.

2. Tác phẩm

Ra đời ở thời kì văn, sử, triết bất phân, Đại Việt sử kí toàn thư là cuốn sách biên niên lịch sử nhưng đậm chất văn học. Mỗi nhân vật, sự kiện lịch sử được kể kèm theo những câu chuyện sinh động, để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Đoạn trích về Trần Quốc Tuấn là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho cách viết đó.

Phẩm chất nổi bật ở Trần Quốc Tuấn được khắc hoạ là trung quân ái quốc. Lòng trung với vua của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước. Ông hết lòng lo tính kế sách giúp vua giữ nước an dân. Lòng trung của ông được đặt trong hoàn cảnh có thử thách, bản thân ông cũng bị đặt trong mối mâu thuẫn giữa "hiếu" và "trung". Trần Quốc Tuấn đã đặt "trung" lên trên "hiếu" , nợ nước trên tình nhà. Bên cạnh phẩm chất trung quân ái quốc, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng anh hùng đầy tài năng, mưu lược đồng thời là con người có đức độ lớn lao.

Những phẩm chất trên đây của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được tác giả sử kí khắc hoạ trong nhiều mối quan hệ và đặt vào những tình huống có tính chất thử thách. Từ quan hệ với nước, với vua đến quan hệ với dân, với tướng sĩ dưới quyền, từ quan hệ đối với con cái đến quan hệ đối với bản thân..., dù trong bất kì hoàn cảnh nào, bất kì quan hệ nào, Trần Quốc Tuấn vẫn là tấm gương mẫu mực của một vị tướng toàn đức, toàn tài. ông không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quân giặc cũng phải kính phục. 

II. Trả lời câu hỏi

1. Em rút ra được điều gì qua lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua về kế sách giữ nước.

Lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua có nội dung:

- Nên tuỳ thời thế mà có sách lược phù hợp, binh pháp cần vận dụng linh hoạt, không có khuôn mẫu nhất định. - Điều kiện quan trọng nhất để thắng giặc là toàn dân đoàn kết một lòng.

- Do đó phải giảm thuế khoá, bớt hình phạt, không phiền nhiễu dân, chăm lo cho dân có đời sống sung túc..., đó chính là "thượng sách giữ nước”. Qua nội dung lời trình bày, người đọc nhận thấy Trần Quốc Tuấn không những là vị tướng tài năng, mưu lược, có lòng trung quân mà còn biết thương dân, trọng dân và biết lo cho dân.

2. Chi tiết Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn ra hỏi ý kiến hai người gia nô cùng hai người con và những phản ứng của ông khi nghe câu trả lời của họ có ý nghĩa như thế nào?

Trần Quốc Tuấn đã có suy nghĩ của riêng mình đối với lời cha dặn: "Để điều đó trong lòng nhưng không cho là phải”. Nhưng ông vẫn hỏi ý kiến hai người gia nô và hai người con để thử lòng.

- Trước lời nói của Yết Kiêu và Dã Tượng, ông "cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người”.

- Trước lời nói của Hưng Vũ Vương, ông "ngầm cho là phải”.

- Trước lời nói của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng, ông nổi giận rút gươm định trị tội và thậm chí sau này không muốn Quốc Tảng nhìn mặt ông lần cuối. Qua những biểu hiện trên đây, ta có thể thấy Trần Quốc Tuấn là một người hết lòng trung nghĩa với vua, với nước, không mảy may tự tư tự lợi. Ông cũng là một người có tình cảm chân thành, nồng nhiệt, thẳng thắn, rất nghiêm trong việc giáo dục con cái.

3. Qua đoạn trích có thể thấy nổi bật những đặc điểm gì về nhân cách của Trần Quốc Tuấn? Chỉ ra sự khéo léo trong nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật của tác giả (nhân vật được đặt trong những mối quan hệ và những tình huống như thế nào?).

Để thấy được toàn bộ chân dung Trần Quốc Tuấn, ngoài các chi tiết trên cần chú ý tới nhiều chi tiết khác như: lời phân tích của ông với nhà vua về cách đánh giặc, cách giữ nước khi ông lâm bệnh; mối hiềm khích giữa cha ông và Trần Thái Tông và lời dặn dò của cha;...

Phẩm chất nổi bật ở Trần Quốc Tuấn được khắc hoạ là trung quân ái quốc. Lòng trung với vua của trần Quốc Tuấn thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước. ông hết lòng lo tính kế sách giúp vua giữ nước an dân. Lòng trung của ông được đặt trong hoàn cảnh có thử thách, bản thân ông cũng bị đặt trong mối mâu thuẫn giữa "hiếu" và "trung". Trần Quốc Tuấn đã đặt "trung” lên trên "hiếu” , nợ nước trên tình nhà.

Bên cạnh phẩm chất trung quân ái quốc, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng anh hùng đầy tài năng, mưu lược đồng thời là con người có đức độ lớn lao.

Những phẩm chất trên đây của Hưng Đạo Đại Vương trần Quốc Tuấn đước tác giả sử kí khéo léo khắc hoạ trong nhiều mối quan hệ và đặt vào những tình huống có tính chất thử thách. Từ quan hệ với nước (câu nói nổi tiếng "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”), với vua đến quan hệ với dân (khi sống nhắc nhở vua "khoan sức dân", khi chết hiển linh phò trợ dân), với tướng sĩ dưới quyền (tận tâm dạy bảo, tiến cử người tài), từ quan hệ đối với con cái (nghiêm khắc giáo dục) đến quan hệ đối với bản thân (khiêm tốn, giữ đạo trung nghĩa),... Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, bất kì quan hệ nào, Trần Quốc Tuấn vẫn là một mẫu mực của một vị tướng toàn đức, toàn tài. ông không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quân giặc cũng phải kính phục.

4. Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn trích? 

Ghi chép lịch sử là ghi chép theo trình tự thời gian nhưng cần chú ý là trong Đại Việt sử kí toàn thư, cách kể chuyện về các nhân vật lịch sử không đơn điệu theo trình tự thời gian.

Mở đầu đoạn trích là sự xuất hiện một sự kiện tạo nên một mốc đáng chú ý: "Tháng 6, ngày 24, sao sa”. Theo quan niệm của người xưa, sao sa là điềm xấu. Điềm này báo hiệu Hưng Đạo Vương ốm nặng và sẽ qua đời.

Từ sự việc trên, nhà viết sử ngược dòng thời gian kể chuyện về Trần Quốc Tuấn. Tiếp đó, tác giả lại trở về với dòng sự kiện đang xảy ra: "Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất...”. Sau thông tin này, tác giả nhắc lại những công lao và đức độ của Trần Quốc Tuấn để gián tiếp giải thích cho những danh hiệu tôn quí mà Trần Quốc Tuấn được vua phong tặng. Đây không hoàn toàn là việc ôn lại một cách khô khan mà tất cả những công lao, đức độ của người quá cố được thể hiện trong những câu chuyện sinh động.

Nhà viết sử không chỉ kể chuyện một cách phức hợp, với nhiều chiều thời gian, mà còn khéo léo lồng vào câu chuyện những nhận xét sâu sắc nhằm định hướng cho người đọc có được những nhận xét, đánh giá thoả đáng.

Cách kể chuyện trong đoạn trích vừa mạch lạc, khúc chiết vừa giải quyết được những vấn đề then chốt về nhân vật đồng thời vẫn giữ được mạch chuyện tiếp nối lô-gíc.Chuyện vì thế trở nên sinh động, hấp dẫn. Nhân vật lịch sử cũng vì thế mà được nổi bật chân dung.

5. Chi tiết về lòng tin của dân chúng vào sự hiển linh của Hưng Đạo Vương, đặc biệt là hình ảnh "tráp đựng kiếm có tiếng kêu” có ý nghĩa gì? Anh (chị) hãy lựa chọn một trong các ý sau ( SGK).

Câu hỏi này là câu hỏi tình huống, đặt HS vào một sự lựa chọn để qua đó rèn luyện khả năng cảm thụ nhạy bén và khả năng liên tưởng phong phú. ý (a): "cho thấy tín ngưỡng và những tập tục thờ cúng của nhân dân ta thời xưa” là không đúng. Cả hai ý (b),(c): "cho thấy lòng cảm phục và ngưỡng mộ của nhân dân đối với Hưng Đạo Vương sâu sắc đến mức họ đã thần thánh hoá ông, cho rằng ông đã trở thành thần linh để giúp dân, giúp nước” và "Chỉ là những truyền thuyết để làm nổi bật tấm lòng thương dân, yêu nước và khí phách anh hùng của ông- những nét đẹp đã trở thành bất tử trong lòng người” đều đúng. Vì vậy, cần chọn ý (d): "ý kiến khác" để đưa ra những nhận xét tổng hợp và những ý kiến mang tính sáng tạo của bản thân, có thể liên hệ tới việc nhiều nơi hiện nay có đền thờ Hưng Đạo Vương, nhân dân tôn kính gọi Trần Quốc Tuấn là "Đức Thánh Trần”.

Bình luận (0)
Ngô Võ Kim Cương
Xem chi tiết
Nguyễn Minh Hằng
18 tháng 2 2016 lúc 15:52

 

Trần Thủ Độ là một nhân vật lịch sử đặc biệt, từng được xem là một nhà chính trị có nhiều mưu mô, thủ đoạn, thậm chí là tàn nhẫn. Nhưng đánh giá một cách khách quan, ông lại là một người trung thành và mưu trí, có công lớn trong việc khai sáng, phò trợ nhà Trần

Bằng lối kể chuyện hấp dẫn, với các tình tiết có chọn lọc, đoạn trích này đã khắc họa đậm nét hình ảnh vị quan đầu triều Trần Thủ Độ với những phẩm chấtt chí công vô tư, nghiêm minh, liêm khiết. Hình ảnh của ông quả thực có rất nhiều ý nghĩa trong thời đại ngày nay.

II. Trả lời câu hỏi

1. Những tình tiết liên quan đến Trần Thủ Độ, có khả năng bộc lộ tính cách của ông.

Trong đoạn trích có bốn tình tiết liên quan góp phần bộc lộ các khía cạnh trong tính cách của ông

- Có người mách vua về sự chuyên quyền của Trần Thủ Độ, nhưng Trần Thủ Độ không những không biện bạch cho mình và tỏ lòng oán thù mà còn công nhân lời nói phải và thưởng cho người dám dũng cảm vạch lỗi của mình. Qua đó ta thấy ông là người công minh, độ lượn và có bản lĩnh. Với ông, việc làm hữu ích cho nước, cho dân mới là câu trả lời cho tất cả

- Khi nghe Linh Từ Quốc Mẫu (vợ ông) khóc và mách về việc tên quân hiệu ngăn không cho đi qua thềm cấm, Trần Thủ Độ không vội bênh vợ và bắt tội tên quân hiệu kia mà tìm hiểu rõ sự việc rồi còn khen thưởng kẻ giữ đúng luạt pháp. Qua  sự việc này có thể thấy ông là người chí công, vô tư, tôn trọng luật pháp, không thiên vị người thân.

- Có người chạy chọt nhờ Linh Từ Quốc Mẫu  xin cho làm chức câu đương, Trần Thủ Độ đã dạy cho tên này một bài học : muốn làm chức quan ấy hắn phải bị chặt một ngón chân để phân biệt với những người khác do "Người vì có công, chúa xin cho". Qua đây có thể thấy ông chủ động gìn giữ sự công bằng của phép nước, bài trừ tệ nạn chạy chọt, đút lót, dựa dẫm thân thích.

- Vua mong phong chức cho anh của Trần Thủ Độ, nhưng ông không đồng ý. Ông thẳng thắn trình bày quan điểm : chỉ nên chọn lựa người giỏi nhất, có thể là anh mình, có thể không, không nên hậu đãi cả hai anh em sẽ làm rối việc triều chính. Qua đó có thể thấy Trần Thủ Độ luôn đặt việc công lên trên, không tư lợi, không gây bè kéo cánh

Những tình tiết trên đã góp phần làm nổi bật bản lĩnh và nhân cách Trần Thủ Độ : cương trực, độ lượng, liêm khiết, vô tư, luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia trên lợi ích cá nhân, gia đình. Điều này càng có ý nghĩa hơn bởi Trần Thủ Độ đang giữ chức quan cao nhất trong triều, quyền hành lớn đều nằm trong tay ông vì vua đang tuổi còn nhỏ. Trần Thủ Độ luôn gương mẫu, tôn trọng pháp luật.

2. Những đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện và khắc họa nhân vật của nhà viết sử :

- Sử gia Ngô Sĩ Liên đã xây dựng nhiều tình huống giàu kịch tính , tuy rất ngắn nhưng mỗi câu chuyện đều có xung đột, với kết cấu thắt nút, cao trào và mở nút

Sức hấp dẫn của truyện không chỉ ở cách kể chuyện đặc sắc mà còn ở sự hàm súc của ngôn từ. Các câu chuyện chỉ được kể chứ không kèm theo những lời bình luận. Cách kể ấy đã giúp người đọc phát huy được nhiều hơn tính chủ động của mình trong việc đánh giá nhân vật trung tâm

- Cả 3 tình huống, khi xung đột được đẩy lên cao trào, người đọc đã rất bất ngờ về cách giải quyết không theo logic thông thường của Trần Thủ Độ . Ở mỗi tình huống ông lại có một cách giải quyết riêng, người đọc vừa bất ngờ lại vừa khâm phục. Chính cách xây dựng nhân vật như vậy mà bài văn càng đọc càng hấp dẫn, thú vị

 

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
19 tháng 6 2017 lúc 17:23

Chọn đáp án: C

Bình luận (0)
Nguyễn Hồng Diệp
Xem chi tiết
Lê Tùng Đạt
11 tháng 5 2018 lúc 3:14
A B
- Quang Trung - Đại phá quân Thanh
- Lê lợi - Khởi nghĩa Lam
- Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập
- Lê Thánh Tông - Hồng Đức quốc âm thi tập
- Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử kí toàn thư
Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
23 tháng 9 2018 lúc 13:06

Học sinh đọc thầm đoạn trích nhiều lần để hiểu nội dung đoạn trích và có thể trả lời các câu hỏi.

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
12 tháng 9 2018 lúc 3:17

Phẩm chất nổi bật: lòng trung quân ái quốc

- Trung thành với vua: ý thức yêu nước sâu sắc, trách nhiệm với đất nước

- Lòng trung thành của ông được đặt trong thử thách, bản thân ông bị đặt trong mối quan hệ “trung” và “hiếu”

    + Ông đặt chữ “trung” lên trên chữ “hiếu”, nợ nước trên tình nhà

- Là vị tướng anh hùng đầy tài năng, mưu lược, đức độ

→ Tác giả khắc họa trong nhiều mối quan hệ và đặt trong tình huống có tính thử thách: quan hệ với nước, với vua, với hộ dân, nhắc nhở vua “khoan sức dân”, với tướng sĩ dưới quyền, quan hệ đối với con cái, quan hệ với bản thân

→ Ông mẫu mực là vị tướng toàn đức, toàn tài, được dân ngưỡng mộ, tới cả giặc cũng phải kính phục

Bình luận (0)
Minh Lệ
Xem chi tiết

– Trần Thủ Độ với sự ra đời của nhà Trần:

+ Người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần.

+ Sau khi nhà Trần thành lập, ông được vua phong làm Quốc thượng phụ rồi Thái sư. Bằng tài năng, uy tín của mình, ông đã củng cố nước Việt vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quân sự…

– Vai trò của Trần Quốc Tuấn:

Là vị chỉ huy quân đội, lãnh đạo tối cao cùng với các vua Trần.

+ Đưa ra những chủ trương kế sách đúng đắn, là điều kiện tiên quyết dẫn đến thắng lợi của các cuộc kháng chiến.

+ Là người huấn luyện quân đội, khích lệ tinh thần các chiến sĩ thông qua việc soạn thảo “Hịch tướng sĩ”.

+ Là tác giả của các bộ binh thư nổi tiếng: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư.

+ Trần Quốc Tuấn còn bỏ qua các hiềm khích, thù riêng, nêu cao tinh thần yêu nước, vì nghĩa lớn.

– Vai trò của Trần Nhân Tông:

+ Xây dựng một đất nước cường thịnh, xã hội rất ổn định, biết cách thu phục nhân tâm. Dân chúng cả nước đồng lòng, đồng sức vì Vua.

+ Trường lớp rất được mở mang. Việc thi cử đã được mở theo định kỳ để lấy người tài giỏi ra giúp nước.

+ Sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm và được xem như là Phật Tổ của trường phái này. Ông có vai trò rất lớn trong việc chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam.

Bình luận (0)
Hảo Hoàng
Xem chi tiết
Phạm Chiến
Xem chi tiết
Bùi Thị Thu Hồng
23 tháng 3 2018 lúc 17:24

Hướng Dẫn

1.Ngay sau khi nêu gương các anh hùng nghĩa sĩ đã xả thân vì đất nước trong những thời kì loạn lạc, tác giả đã viết những lời hết sức tâm huyết kể tội ác của giặc. Bằng cái nhìn sáng suốt, sâu rộng và cảnh giác của vị Tiết chế thống lĩnh, Trần Quốc Tuấn đã vạch trần tà tâm và bộ mặt tham lam, tàn bạo của quân xâm lược phương Bắc qua hình ảnh của những tên sứ giặc.

2.Đoạn văn nói về nỗi lòng, tâm trạng của Trần Quốc Tuấn trước tội ác của giặc được đánh giá là đoạn đặc sắc, hay nhất của bài hịch. Tác giả đã sử dụng những lời văn hết sức thống thiết, cách nói thậm xưng để diễn tả nỗi đau, sự uất hận của một vị tướng lĩnh phải chứng kiến cảnh quốc thế bị sỉ nhục, nhân dân bị chà đạp. Nỗi đau ấy luôn thường trực, kéo dài dằng dặc theo dòng chảy thời gian (ngày, nửa đêm…) thấu vào tận xương tủy: “như dao cắt, nước mắt đầm đìa”. Càng đau xót càng uất hận, căm thù lên đến tột đỉnh biến thành mong muốn mạnh mẽ: “xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”. Tác giả đã sử dụng cách nói cụ thế đầy ấn tượng để biểu thị một thái độ kiên quyết không dung tha lũ giặc cướp nước. Câu văn chia thành nhiều vế đối nhau tạo cho giọng văn sự đanh thép, hùng hồn, mạnh mẽ.

3.Tác giả cũng chỉ ra một sự thật dù phũ phàng song rất hiển nhiên, tất yếu: Tiền không mua được đầu giặc, chó săn không đuổi được quân thù, rượu ngon không thế làm cho giặc say chết… Và người phải chịu hậu quả đau xót không chi là triều đình, là tướng lĩnh mà chính là bản thân người lính và những người thân yêu của họ.

Tác giả vẽ ra viễn cảnh hết sức bi thương sẽ xảv ra với những điều thiêng liêng, tôn kính nhất của mỗi con người: gia quyến bị tan, phần mộ cha mẹ bị quật lên, tiếng dơ khôn rửa… Còn gì đau xót hơn?

4.Tác giả là một vị thống lĩnh, lại trong một văn bản chính luận, không thể tránh khỏi nhừng lời lẽ khẳng khái, nghiêm khắc phê phán khi nói về thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của nhiều tướng sĩ trước vận mệnh đất nước “không biết lo, mà không biết thẹn, không biết tức…”. Nhiều lúc sắc thái đó còn được tăng lên thành nhừng lời khẳng định một chân lí duy nhất, không thể khác: “Nếu các ngươi… thì mới phải; nhược bằng khinh bỏ… tức là kẻ nghịch thù”. Đối với Trần Quốc Tuấn, đó cũng là tư tưởng chung của hệ ý thức phong kiến “ái quốc”, thống nhất với “trung quân”. Thiết nghĩ trung thành với một triều đại thân dân, có những vị tướng kiệt xuất, hết lòng vì giang sơn xã tắc thì cũng là thuận ý trời, hợp lòng dân. Như vậy, lời lẽ và thái độ của Trần Quốc Tuấn cũng là hết sức hợp lí.

Nhưng có nhiều khi muốn bày tỏ sự ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi, chân tình của người cùng chung cảnh ngộ: “Các ngươi ở cùng ta…”, “lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị đau xót biết chừng nào…”, “chẳng những… mà”.

Đặc biệt là đoạn văn miêu tả tâm trạng xót xa, uất hận đến tột cùng của vị thống lĩnh đã tạo cho bài hịch có sắc thái chân tình, gần gũi, thắm thiết.

Bình luận (0)
minh nguyet
19 tháng 4 2020 lúc 16:59

Tham khảo:

Để diễn đạt một nội dung vừa có tính cách thuyết phục, vừa có tính cách phê phán, tác giả đã lập luận rất chặt chẽ như chúng ta đã thấy ở phần kết cấu và bố cục – lời lẽ có tình, có lý, khi thì thiết tha, khi thì đanh thép, chuyển từ đầu đến cuối một cách logic.

Để phân rõ lẽ phải – trái, chính – tà, tác giả đi từ xa đến gần, từ vấn đề chung đến vấn đề cụ thể trước mất. Mở đầu, tác giả dẫn chứng trong sử sách đời xưa để nói khả năng của tướng sĩ đời nay, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tác giả chuyển xuống phân tích nỗi giặc tàn ác như thế nào, nỗi mình thâm giao như thế nào, tiếp đó tác giả vạch ra hai viễn cảnh trái ngược nhau, rồi kết thúc bằng lời kêu gọi đanh thép; hoặc theo ta, hoặc theo giặc, hoặc là bạn, hoặc là thù, hoặc là danh thơm muôn thuở, hoặc là tiếng xấu nghìn thu. Phương pháp tương phản, đi đôi với lối văn biền ngẫu trong bài này thật là “đắc dụng”.

Ở đây chẳng những ý từng đoạn đôi nhau, mà ý từng câu đối nhau, từng chữ đối nhau. Chúng ta đọc đến đâu là lẽ phải – trái nổi bật đến đấy; “Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn,, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức. Nghe nhạc Thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm…”,

Rõ ràng, chữ đập nhau, đối nhau chan chát, ai là người không nhận rõ chính – tà?

Tác giả lại biết phối hợp phương pháp điệp ngữ, điệp ý để làm tăng thêm tính thiết tha, tính bi tráng của câu văn. Để đập vào tư tưởng an hưởng thái bình trong tướng sĩ lúc đó, tác giả viết: hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc… hoặc…”. Tác giả nêu lên hình tượng cựa gà trống bên áo giáp, mẹo cờ bạc bên quân mưu. Sự vật có vẻ hài hước, nhưng ý nghĩa thật nghiêm trang. Bằng phương pháp tương phản kết hợp phương pháp so sánh, tác giả nêu ra hai viễn cảnh:

Viễn cảnh u ám Viễn cảnh tươi đẹp

Thái ấp của ta: Không Bổng lộc các ngươi: Mãi mãi vững còn + cũng mất bền + đời đời hưởng thụ

Gia quyến của ta: Bị tan + Vợ con các ngươi: Yên ấm gối chăn + cũng khốn Bách niên giai lão

Xã tắc tổ tông của ta: Bị Mồ mả cha mẹ các ngươi: Muôn đời giày xéo + bị quật lên tế lễ + Thờ cúng quanh năm

Để làm tăng thêm tính quan trọng của vấn đề, tác giả nhắc lại ý nghĩa đối với quần chúng nhân dân lúc bấy giờ và sự thanh nghị của người đời sau trong sử sách. Sau đó tác giả đặt một mệnh đề nghi vấn nhưng lại rất khẳng định:

Trong cảnh u ám: “Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?”.

Trong cảnh huy hoàng: “Lúc bấy giờ, dẫu các người không muốn vui chơi phỏng có được không?”.

Đây là một đoạn văn hùng biện tài tình, khích lệ cao độ lòng căm thù, chí phấn đấu. Nhà văn Đặng Thai Mai có nhận xét về đoạn văn này: “Văn thể đoạn này, lời lẽ một bài thuyết pháp. Đập từng chữ, dằn từng câu, Hưng Đạo Vương đánh mạnh vào tình cảm tu ố của bộ hạ, để cho họ biết chán, biết ghét, biết khinh bỉ cái đời hưởng thụ và vô ích của bọn tín đồ chủ nghĩa khoái lạc”.

Đặc điểm bài văn này còn ở chỗ tác giả biết cấu tạo hình tượng sinh động, sử dụng lời văn thích đáng. Để nêu những hy sinh trong sử sách, tác giả nêu lên những hình tượng “đem mình chết thay”, “chìa lưng chịu giáo”, “nuốt than”, “chặt tay”… Đối với giặc, tác giả dùng những hình tượng “uốn lưỡi cú diều”, “đem thân dê chó”. Chỉ mấy chữ đó cũng nói lên bản chất của giặc là xảo quyệt và hèn hạ. Như vậy lòng căm thù mới đến độ: bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Hình tượng “bêu đầu”, “làm rữa thịt” nói lên được cái uất hận trào lên của mọi người, của tướng sĩ và của chính bản thân Trần Quốc Tuấn… Những hình tượng “quên ăn”, “vỗ gối”, “ruột đau”, “nước mắt đầm đìa” chứa đựng một nội dung, một tấm lòng; cùng quân thù không đội trời chung. “Xả thịt lột da, uống máu quân thù” tám chữ nhưng chỉ một tấm lòng yêu nước, chí căm thù vào tim gan tướng sĩ, có tác dụng đánh bại tư tưởng an hưởng thái bình trong đầu óc tướng sĩ.

Để làm nổi bật các hình tượng, tác giả chú ý sử dụng lời văn. Ngoài cách chọn chữ, chọn lời của tác giả rất thích đáng, để cách sử dụng tiếng đưa đẩy (hư từ) rất tài tình. Chẳng hạn: “…chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các người cũng mất…”. Những từ “chẳng những”, “mở” được lặp lại nhiều lần, làm tăng vẻ thiết tha, bi tráng, hùng biện của bài văn. Có khi chỉ là một ý (như ở đoạn trên đà phá tư tưởng hưởng lạc…), nhưng tác giả hết sức chú ý diễn xuôi đảo ngược, nói đi nói lại, lời lẽ tình ý thấm từng giọt vào đường gân thớ thịt, vào kẽ tóc chân tơ… Trần Quốc Tuấn đã có một ưu điểm nổi bật: Bộc lộ lòng mình, lòng yêu non sông đất nước thắm thiết của mình, và từ đó lời nói tâm can của ông mới thấm lòng người, lòng tướng sĩ và khích lệ được lòng yêu nước của mọi người, của tướng sĩ. Giá trị thuyết phục của bài hịch chính là ở chỗ đã kết hợp ở mức độ cao hai yếu tố tình cảm và lý tính.

Bình luận (0)