Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Văn Đình Minh Lộc
Xem chi tiết
Văn Đình Minh Lộc
26 tháng 5 2022 lúc 0:38

lm bài nào v bn

(っ◔◡◔)っ ♥ Kiera ♥
26 tháng 5 2022 lúc 0:42

tự hỏi tự trl hả:))

Lý Minh tiến Lý
Xem chi tiết
Minh Alex Play
Xem chi tiết
Chi Phạm
5 tháng 4 2023 lúc 20:27

Bất ngờ, một vầng sáng phát ra từ trên cao, rọi thẳng ngay phía Ma-ri-ô đang đứng. Một sợi thang dây từ chiếc trực thăng cứu hộ được thả xuống. Ma-ri-ô vội bám vào và chiếc thang từ từ được kéo lên.Mọi người trên xuồng cứu hộ hò reo, vui mừng khôn xiết. Đặc biệt là Giu-li-ét-ta, niềm hân hoan hiện rõ trên khuôn mặt đẫm nước mắt. Và nụ cười đã nở trên môi của Giu-li-ét-ta.

Lí Chấn Đông
Xem chi tiết
Khuất Minh Ngọc
25 tháng 2 2021 lúc 20:22

được rồi!!!!!!!

Khách vãng lai đã xóa
Văn Lộc
Xem chi tiết
Ngô Phương Anh
Xem chi tiết
Phạm Nguyễn Minh Anh
8 tháng 4 2022 lúc 18:23

ahihi

Khách vãng lai đã xóa
Ngô Phương Anh
Xem chi tiết
Tớ là bánh trôi
Xem chi tiết
Mọt sách không đeo kính
21 tháng 4 2019 lúc 20:39

Tương truyền rằng con người sau khi tạ thế sẽ phải đi qua một con đường tên gọi Hoàng Tuyền để đi tới Quỷ Môn Quan. Cát Hoàng Tuyền đỏ au như máu ,đất Hoàng Tuyền đen tựa màn đêm. Xung quanh trồng đầy giống hoá Bỉ Ngạn bung nở một dáng vẻ yêu kiều như nuốt trọn bi ai của nhân gian. Vậy sau khi bị phu quân phản hội, vua cha chém đầu, hồn Mị Châu sẽ đi về đâu? Không rõ nữa, có lẽ là Hoàng Tuyền.

Truyện xưa kể lại, sau khi Mị Châu qua đời không lâu, Trọng Thủy cũng đột ngột ra đi. Triệu Đà xót thương con trai, ngày đêm mời pháp sư về cúng chiêu hồn, nhưng kì lạ là gọi mãi không thấy hồn chàng hiện lên. Có người nói: hồn Trọng Thủy đã ra thành cát bụi, cũng có người nói, chàng đang đi tìm Mị Châu,... Lời đồn thì vô kể nhưng sự thực thì mấy ai hay?

"Nhân duyên" - cái gọi là nhân duyên xem ra cũng chỉ là món nợ phải trả cho người

Hồng trần như mộng, người tỉnh mộng tan, nhân sinh như kịch, người tan kịch tàn. Chớp mắt đã qua ngàn năm. Hàng năm, số lượng người chết đi qua sông Vong Xuyên lại nhiều vô kể . Lão quỷ sai lái đỏ ở đây đã bao năm, lại luôn trông thấy một năm tử lạ kì ngồi dựa vào đá Tam Sinh, tay ôm chậu hoa Bỉ Ngạn, ngồi thẫn thờ nhìn về phía trước, thi thoảng lại vô lực mỉm cười nói với đóa hoa đỏ rực trong tay: 

- A Châu, lại một mùa hoa nở rộ, khi nào nàng mới trở về bên ta?

Nói đến đây, hẳn các người cũng biết hẳn nam nhân đó là ai rồi chứ?

Hồn Trọng Thủy sau khi lìa khỏi xác đã lang thang dưới âm phủ bốn mươi chín ngày đêm để tìm Mị Châu, nhưng đáp lại hắn là những cái lắc đầu đầy tiếc nuối. Trọng Thủy tìm gặp Mạnh Bà, xin không uống nước sông Vong Xuyên, nguyện không đầu thai, ở lại đây chờ thê tử quay về.

Mạnh Bà là người cai quản Vọng Hương đài, nếu muốn đến thập điện chuyển sinh, phải uống canh từ bảy giọt lệ do bà điều chế để quên đi mọi sự ở nhân gian. Mạnh Bà giao cho Trọng Thủy một bông hoa và nói rằng:

- Tình ái, tới cũng nhanh, đi cũng nhanh, nếu nó úa tàn thì còn có thể cứu chữa. Nhưng nếu nó chết rồi, thì phải làm sao đây? Mị Châu vì không muốn quên đi người mà nguyện hoá thành Bỉ Ngạn. Bỉ Ngạn hoá, vốn dĩ đau thương đến cùng cực, vẫn còn nở rộ dể mê hoặc chúng sinh. Trăm năm ra hoa một lần, diệp sinh vô hoa, hoa khai vô diệp. Lá và hoa mãi mãi không có cơ hội nở chung một lúc. Đợi qua ngàn năm, khi lá và hoa có duyên nở cùng, ngươi sẽ gặp lại thê tử của mình, chỉ trong một canh giờ thôi, nàng ta sẽ đi tới một thế giới khác. Một thế giới mà nàng ước mong. Và rồi, rốt cục đã đến kì hạn một nghìn năm, Trọng Thủy ngồi bên Tam Sinh thạch, chỉ sợ rời đi nửa bước sẽ vụt mất nàng. Hắn đợi một ngày, nhưng không thấy nàng đâu, trời tối đen như mực và hi vọng của hắn. Giữa trời đất này, giữa dòng sông này, thứ còn sót lại chỉ còn là nước mắt.

- A Châu, nàng có thể nhẫn tâm như vậy sao? Nguyện không chuyển sinh ngàn năm, nhưng lại không muốn gặp mặt tướng công của mình. Là nàng lạnh lùng hay vốn không hề có trái tim?

Lời vừa dứt, một giọt lệ lăn xuống phiến lá mỏng, một đạo hồng quang bay quanh đóa Bỉ Ngạn lồ bung nở một dáng vẻ yêu kiều. Sau cái nhoè nhoẹt của nước mắt, thấp thoáng một nhân ảnh gầy mòn. Một nghìn năm, hắn đã chờ nàng một nghìn năm rồi, hắn lo sợ sau khi tỉnh dậy, nàng có chê hắn già không?

Đáp lại sự kích động đến trào nước mắt của Trọng Thủy, Mị Châu bình thản như người xa lạ. Ai đó từng nói với hắn, con người có ba cảnh giới của đau khổ: thấp nhất là gào thét, cao hơn là điên loạn, đau nhất là bình thản. Nàng nhìn xa xăm và trả lời nhẹ bẫng:
- Sao có thể không có trái tim? Ta đã để nó ở chỗ chàng rồi nhưng Trọng Thủy, chàng để nó ở đâu?

Trọng Thủy trân trân nhìn nàng, cổ họng như có một hòn thân nóng rực chèn lại. Chàng đã hi vọng biết bao, có thể ôm nàng vào lòng và nói:
- Đi cùng ta, tới một nơi không ai hay biết. Chúng ta tứ hải, tam san, lưỡng nhân, một đời.

Nhưng thật bi thương biết bao, "chúng ta" của trước đây bây giờ chỉ còn là "ta và nàng."

Trọng Thủy những muốn tiến lên nhưng lại không thể, sợ rằng nàng sẽ ghê sợ mà bỏ hắn đi. Mùi Bỉ Ngạn thơm ngát che đi dáng vẻ của đau thương nhưng lại làm tim cả hai tê tái đến thấm nhuần vào tận cốt tủy. Bao nhiêu năm nay, thứ gặm nhấm chàng không chỉ có cô đơn.
Mãi lúc lâu sau, hắn mới có thể lên tiếng:
- Là ta sai, ta luôn vì Nam Việt, luôn vì con dân, nhưng ta chưa bao giờ vì nàng. Ta không phụ Nam Việt, không phụ con dân, nhưng ta lại phụ nàng. Nhưng A Châu, ta yêu nàng là thật, thương nàng là thật, lúc trước nói muốn ở bên nàng cũng là thật. Nàng rất quan trọng với ta

Khẽ thấy Mị Châu mỉm cười nặng nề, nàng cười, nhưng nước mắt lại rơi:
- Quan trọng, thế nào là quan trọng?

- Là khi trời nổi giông bão, ta không đi tìm nến, ta đi tìm nàng

Trọng Thủy ôm lấy nàng, sợ rằng hai tay sẽ không đủ sức giữ nổi người mình yêu. Nhưng siết chặt thì sợ nàng đau, nới lỏng lại sợ vuột mất, thâm tình khổ, một đời khổ, si tình chỉ vì vô tình mà khổ.

Trái tim như bị đâm thủng, có cái gì trong nàng vừa mới chết. Lòng nàng như gào thét rằng: "Vậy khi bão tới rồi chàng ở đâu?" Thế nhưng vẻ ngoài của nàng lại lãnh đạm hết sức. Bởi trong cuộc sống, có những nỗi đau không nói lên lời, có những nỗi lầm phải trả giá bằng cả kiếp người, nhưng nỗi lầm nàng lại phải trả giá bằng máu của cả dân tộc.

Nàng khoác lên mình lớp áo bình thản mà trong lòng dậy sóng : 
- Trọng Thủy, chàng không sai, ít nhất với con dân Nam Việt. Nhưng ta là công chúa Âu Lạc, chàng và ta vĩnh viễn không thể đi tới vĩnh viễn. Mà hai từ "vĩnh viễn", thực chất chỉ là một loại ảo tưởng được sinh ra từ nỗi cô đơn

Trọng Thủy dùng hai tay ôm trọn khuôn mặt nàng, sau cùng phát hiện ra những giọt lệ của nàng chỉ là ảo giác :
- A Châu, tại sao nàng lại không có nước mắt ?

Mị Châu mỉm cười nhắm mắt lại, từng lời khi xưa An Dương Vương hiện về trong tâm trí nàng : "Mị Châu, ta chém con, không phải vì ta hận, mà vì ta thà để con một đao chết trong vòng tay cha còn hơn là bị kẻ thù giày xéo. Đá không đầu vô tri cô giác, không có đầu lấy đâu lệ mà rơi".

Bao lời muốn thốt ra chung quy lại vẫn chỉ là sự bất lực, một canh giờ sắp hết, nàng cần một lời giải thích từ Trọng Thủy : 
-Hãy cho thiếp một lí do để tiếp tục yêu chàng

Trọng Thủy nhìn người con gái trong tay, hạ giọng thật thấp :
- Vào ngày cuối cùng ta còn ở Âu Lạc, ta nhận được thư của vua cha ở phía Nam. Người nói rằng, ta là một đứa con bất hiếu, vì chuyện nhi nữ tình trường mà quên đi trọng trách quốc gia. Quả thực, ta có ý lừa dối cha để bảo vệ Âu Lạc cho nàng. Ta nghĩ, nàng chỉ đi ngang, gieo vào tim ta một hạt mầm nhỏ bé, ban đầu cứ nghĩ là cỏ dại, đến khi ngoảnh lại thấy một rừng hoa. Thế nhưng ta là một hoàng tử, cha nói, muốn làm kẻ mạnh thì phải giết, bao gồm cả sự thiện lương trong tâm hồn. Nhưng A Châu, Trọng Thủy ta nào đâu muốn làm kẻ mạnh, ta chỉ muốn cùng người ta thương sống bách niên giai lão. Nếu năm đó, ta yêu nàng sớm hơn một chút, ta không phải hoàng tử, nàng không phải công chúa, chúng ta cùng nhau cao bay xa chạy thì tốt biết bao?"

Trọng Thủy ngừng lại, nhìn về phía Mị Châu đang đờ đẫn trong nước mắt
- Nhưng với ta, hạnh phúc và bình yên là hai từ quá xa xỉ. Cha ta uy hiếp ta...

Mị Châu ngước mắt nhìn chàng, âm điệu pha lẫn bi ai :
-Một người mạnh mẽ như chàng cũng có điểm yếu để bị uy hiếp sao ?

Khẽ thấy Trọng Thủy cười khổ : 
- A Châu, cho dù người đời có nói ta mạnh mẽ thế nào. Rốt cuộc ta vẫn có ba điểm yếu. Một : nàng. Hai : yêu nàng. Ba : ta yêu nàng. Đó là những gì ta đánh đổi để giữ lại tính mạng của nàng. Thế nhưng trời xanh cho ta bao năm quên lãng, lại không cho ta được một đời quên. A Châu, nàng có thể tha thứ cho ta không ?

Nhìn vào ánh mắt tràn đầy niềm tin của Trọng Thủy, Mị Châu cứ nắm duỗi bàn tay, cánh hoa bỉ ngạn đã bắt đầu héo úa, bóng nàng thấp thoáng rồi mờ dần. Trọng Thủy vội vã chạy đến giữ chặt nàng, nhưng nàng đã sắp tan thành mây khói, nước mắt chàng rơi chỉ một khắc là vỡ oà, là giải thoát, là một đời cô đơn
- Tướng công, với thân phận là công chúa Âu Lạc, thiếp không thể tha thứ cho chàng, nhưng với thân phận là A Châu, thiếp nguyện ý. Hãy cứ coi đoạn tình này là một giấc mơ. Giấc mơ của chàng là thiên hạ thống nhất, giấc mơ của ta là một gia đình nhỏ. Giấc mơ của chàng không có ta, vì ta không thể giúp chàng bình định thiên hạ, giấc mơ của ta không có chàng, vì chàng chẳng thể cho ta những điều ta ước mong. Giấc mơ của hai ta quá ngắn ngủi, một giấc mơ trưa. Nhưng nếu kiếp sau, nhân sinh nếu như lần đầu gặp gỡ, ta vẫn sẽ yêu chàng như ngày đầu ta yêu".

Dứt lời, nụ cười của nàng cũng tan biến, bỉ ngạn úa tàn, chỉ có Trọng Thủy ngồi giữa đơn côi. Bởi vậy, "yêu" và "đồng hành" là hai chuyện hoàn toàn khác biệt.

Mạnh Bà múc chén canh đi đến cạnh Trọng Thủy nãy giờ vẫn ôm đoá hoa, nhẹ hỏi một câu môt câu : -Người muốn đầu thai hay chờ đợi

Chỉ thấy chàng vân vê cánh hoa nhỏ, mỉm cười nói một chữ "đợi" rồi trông về phương xa. Chàng tin rằng ở một thế giới khác, thế giới của những con người bình thường, chàng sẽ gặp lại Mị Châu. Chàng đợi hết kiếp này, kiếp sau nữa, kiếp sau nữa nữa. Gặp nàng sớm một chút, yêu nàng nhiều một chút, sẽ có ngày Mị Châu đứng trước mặt chàng và mỉm cười nói rằng : "Ta đã về".

Nguồn: Trần Cẩm Anh (Arthur Tố Cẩm)

Lương Trần
Xem chi tiết
Nguyễn Mai Trang
10 tháng 7 2021 lúc 15:50

Đoạn kết của truyện thể hiện tâm trạng xúc động ko nói thành lời của người anh khi nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của cô em gái Kiều Phương. Lời độc thoại của người anh như một lời thú tội đau đớn khi nhận ra phần hạn chế của chính mình. Đồng thời người anh cũng thức tỉnh trước tình cảm trog sáng , chân thành , tài năng hội họa và tấm lòng bao dung của người em gái. Đoạn kết câu chuyện mở ra cho người đọc sự suy ngẫm riêng : lòng nhân hậu , sự độ lượng thật cao quý và có sức chinh phục rất lớn , nó cảm hóa đc phần nhỏ bé , xấu xa trog tâm hồn con người. Qua đoạn kết này ta có thể thấy đc người anh đã lớn hơn , trưởng thành hơn về suy nghĩ , người anh ko những ko đáng ghét mà còn đáng yêu đáng quý

Olm_vn
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Sáng
17 tháng 3 2016 lúc 11:04

Ngay sau khi buổi học kết thúc. Thầy Ha-men cùng người em gái của mình ra đi, rời xa vĩnh viễn vùng An - dát, rời xa vĩnh viễn ngôi trường mà thầy giáo gắn bó bốn mươi năm.

Chiếc xe ngựa đưa thầy ra khỏi trường. Thầy thẫn thờ đưa mắt nhìn ngôi trường. Cả tới khi xe đã ra tới con dốc ở phía đầu làng, thầy vẫn cố ngoái lại nhìn, Rồi thầy quay đi, rút khăn mùi xoa lau nước mắt. Thật tội nghiệp cho thầy.

Bọn học trò nhỏ chúng tôi đưa tiễn thầy mãi đến tận ngã ba, nơi con đường làng nhập và một con đường lớn. Thầy quay về phía chúng tôi, giọng nghẹn ngào:

-      Thôi, các con về đi! Thầy mong các con hãy nhớ những gì thầy đã nói với các con lúc nãy.

Chúng tôi oà lên khóc.

-      Hãy can đảm lên các con - Thầy an ủi chúng tôi và vẫy chào từ biệt.

Rồi chiếc xe ngựa chở thầy cứ xa dần, xa dần, mất hút vào con đường cái lớn. Lúc bấy giờ chúng tôi mới quay về làng. Chúng tôi im lặng đi bên nhau, thẫn thờ như vừa đánh mất một thứ gì quý giá lắm mà không thể nào tìm thấy được!

Hôm sau, thầy giáo dạy tiếng Đức đến thay thế thầy Ha­men...Ông thầy mới này cũng là người Pháp, nhưng không hiểu sao mới gặp chúng tôi đã có ác cảm. Phải chăng vì thầy dạy Đức văn chứ không phải Pháp văn? Sao thầy có thể nhồi nhét vào đầu óc chúng tôi thứ ngôn ngữ lạ hoắc và chán ngắt này?

 

Tôi không hứng thú gì với bài học Đức văn này cả. Tôi nghe thầy giáo giảng bài với một thái độ dửng dưng, lạnh nhạt.

Đên khi thầy giáo mới bảo chúng tôi tập viết những từ tiếng Đức theo mẫu thì tôi lại viết những phân từ tiếng Pháp mà thầy Ha-men đã dạy chúng tôi. Vì tôi mới biết viết tập toạng nên tôi cũng chẳng viết được mấy từ. Bực mình, tôi cắm ngòi bút xuống bàn. Ngòi bút cong vênh lên khi đâm vào mặt bàn cứng. Tôi tự giận mình trước đây sao không chú trọng vào việc học tập, thường hay trốn học và rong chơi ngoài đồng nội? Giá tôi chăm chỉ hơn..,!

Chao ôi, càng nghĩ, tôi càng đau lòng. Và tôi nhớ tới thầy Ha-men, nhớ da diết. Tôi nhớ cái ánh mắt vừa nghiêm khắc, vừa dịu dàng của thầy. Tôi nhớ hình ảnh lớn lao của thầv với bộ trang phục trang trọng tròng buổi học cuối cùng. Tôi nhớ những lời giảng say sưa, xúc động của thầy. Tôi nhớ những từ mẫu viết bằng chữ rông rất đẹp: “Pháp, Andát, Pháp, An-dát” như những lá cờ bay phấp phới trước các dãy bàn. Tôi nhớ cả những lần tôi không thuộc bài, bị thầy phạt trước lớp, hoặc những lần tôi viết nguệch ngoạc, mực giây đầy vở, bị thầy phạt xoè hai bàn tay vụt thước kẻ xuống...Những lúc ấy tôi cho rằng thầy ác quá và rất ghét thầy...

Nhưng lúc này đây tôi lại thèm được thầy trở lại đây dạy chúng tôi những bài Pháp văn, thèm được thầy phạt chúng tôi như vậy. Bây giờ tôi mới thấm thía những hình phạt của thầy là muốn chúng tôi tiến bộ.

Đang nghĩ miên man thì bỗng “cốp”, một cái thước vút mạnh xuống đầu tôi. Tôi choáng váng ngẩng lên. Thầy giáo dạy Đức văn mặt hằm hằm nhìn tôi:

-     Thằng nhãi, mày học hành thế này à? Mày có muốn nhừ đòn không? Liệu hồn đấy! Đồ nô lệ thối tha!

Tôi cố kìm nén sự tức giận và cả những giọt nước mắt chỉ trực trào ra.

Tôi bỗng thấy ánh mắt buồn rầu, trìu mến của thầy Ha­men: Can đảm lên các con. Và bên tai tôi văng vẳng lời thầy Ha-men:

-      Các con ạ, các con nên nhớ rằng: tiếng Pháp là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất; phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác nào nắm được chìa khoá chốn lao tù...

Những tiếng ấy át đi lời sỉ nhục của thầy giáo dạy Đức văn, khiến tôi bình tĩnh dần trở lại.

Bao giờ thầy Ha-men trở lại?.

Nguyễn Ngọc Sáng
17 tháng 3 2016 lúc 11:05

haha

Hà Như Thuỷ
17 tháng 3 2016 lúc 11:06

Ngay sau khi buổi học kết thúc. Thầy Ha-men cùng người em gái của mình ra đi, rời xa vĩnh viễn vùng An – dát, rời xa vĩnh viễn ngôi trường mà thầy giáo gắn bó bốn mươi năm.

Chiếc xe ngựa đưa thầy ra khỏi trường. Thầy thẫn thờ đưa mắt nhìn ngôi trường. Cả tới khi xe đã ra tới con dốc ở phía đầu làng, thầy vẫn cố ngoái lại nhìn, Rồi thầy quay đi, rút khăn mùi xoa lau nước mắt. Thật tội nghiệp cho thầy.

Bọn học trò nhỏ chúng tôi đưa tiễn thầy mãi đến tận ngã ba, nơi con đường làng nhập và một con đường lớn. Thầy quay về phía chúng tôi, giọng nghẹn ngào:

– Thôi, các con về đi! Thầy mong các con hãy nhớ những gì thầy đã nói với các con lúc nãy.

Chúng tôi oà lên khóc.

– Hãy can đảm lên các con – Thầy an ủi chúng tôi và vẫy chào từ biệt.

Rồi chiếc xe ngựa chở thầy cứ xa dần, xa dần, mất hút vào con đường cái lớn. Lúc bấy giờ chúng tôi mới quay về làng. Chúng tôi im lặng đi bên nhau, thẫn thờ như vừa đánh mất một thứ gì quý giá lắm mà không thể nào tìm thấy được!

Hôm sau, thầy giáo dạy tiếng Đức đến thay thế thầy Ha­men…Ông thầy mới này cũng là người Pháp, nhưng không hiểu sao mới gặp chúng tôi đã có ác cảm. Phải chăng vì thầy dạy Đức văn chứ không phải Pháp văn? Sao thầy có thể nhồi nhét vào đầu óc chúng tôi thứ ngôn ngữ lạ hoắc và chán ngắt này?

Tôi không hứng thú gì với bài học Đức văn này cả. Tôi nghe thầy giáo giảng bài với một thái độ dửng dưng, lạnh nhạt.

Đên khi thầy giáo mới bảo chúng tôi tập viết những từ tiếng Đức theo mẫu thì tôi lại viết những phân từ tiếng Pháp mà thầy Ha-men đã dạy chúng tôi. Vì tôi mới biết viết tập toạng nên tôi cũng chẳng viết được mấy từ. Bực mình, tôi cắm ngòi bút xuống bàn. Ngòi bút cong vênh lên khi đâm vào mặt bàn cứng. Tôi tự giận mình trước đây sao không chú trọng vào việc học tập, thường hay trốn học và rong chơi ngoài đồng nội? Giá tôi chăm chỉ hơn..,!

Chao ôi, càng nghĩ, tôi càng đau lòng. Và tôi nhớ tới thầy Ha-men, nhớ da diết. Tôi nhớ cái ánh mắt vừa nghiêm khắc, vừa dịu dàng của thầy. Tôi nhớ hình ảnh lớn lao của thầv với bộ trang phục trang trọng tròng buổi học cuối cùng. Tôi nhớ những lời giảng say sưa, xúc động của thầy. Tôi nhớ những từ mẫu viết bằng chữ rông rất đẹp: “Pháp, Andát, Pháp, An-dát” như những lá cờ bay phấp phới trước các dãy bàn. Tôi nhớ cả những lần tôi không thuộc bài, bị thầy phạt trước lớp, hoặc những lần tôi viết nguệch ngoạc, mực giây đầy vở, bị thầy phạt xoè hai bàn tay vụt thước kẻ xuống…Những lúc ấy tôi cho rằng thầy ác quá và rất ghét thầy…

Nhưng lúc này đây tôi lại thèm được thầy trở lại đây dạy chúng tôi những bài Pháp văn, thèm được thầy phạt chúng tôi như vậy. Bây giờ tôi mới thấm thía những hình phạt của thầy là muốn chúng tôi tiến bộ.

Đang nghĩ miên man thì bỗng “cốp”, một cái thước vút mạnh xuống đầu tôi. Tôi choáng váng ngẩng lên. Thầy giáo dạy Đức văn mặt hằm hằm nhìn tôi:

– Thằng nhãi, mày học hành thế này à? Mày có muốn nhừ đòn không? Liệu hồn đấy! Đồ nô lệ thối tha!

Tôi cố kìm nén sự tức giận và cả những giọt nước mắt chỉ trực trào ra.

Tôi bỗng thấy ánh mắt buồn rầu, trìu mến của thầy Ha­men: Can đảm lên các con. Và bên tai tôi văng vẳng lời thầy Ha-men:

– Các con ạ, các con nên nhớ rằng: tiếng Pháp là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất; phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác nào nắm được chìa khoá chốn lao tù…

Những tiếng ấy át đi lời sỉ nhục của thầy giáo dạy Đức văn, khiến tôi bình tĩnh dần trở lại.

Bao giờ thầy Ha-men trở lại?.