Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Đỗ Nam Trâm
Xem chi tiết
qlamm
15 tháng 12 2021 lúc 10:23

A

lê mai
15 tháng 12 2021 lúc 10:23

B nha

minh nguyet
15 tháng 12 2021 lúc 10:23

A

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
27 tháng 1 2017 lúc 4:36

Đáp án: A

Lăng Thị Đan Lê
Xem chi tiết
Tran Phuc
3 tháng 2 2020 lúc 15:39

Sông núi nước nam có nd là bài thơ đe dọa giặc xâm lược và cổ vũ nâng cao tinh thần chiến đấu chống quân xl của nước ta ngoài ra bài thơ còn là bảng tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta
Phò giá về kinh thì mik ko nhớ
Tinh thần yêu nc của dân ta bộc lộ qua từng dòng văn dòng thơ nói nên tinh thần yêu nc thương dân 1lòng 1 dạ bảo vệ chủ quyền đất nc
(chắc ko đúng đâu):))

Khách vãng lai đã xóa
CHÁU NGOAN BÁC HỒ
Xem chi tiết
thanh
19 tháng 2 2020 lúc 19:34

Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười hai thế kỉ từ thế kỉ Xuân Hương đến hết thế kỉ XIX. Đây làthời kì dân tộc ta đã thoát khỏi ách thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm.Nền văn học trung đại Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dântộc. Về nội dung văn học thời kỳ này mang hai đặc điểm lớn đó là: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo.
Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi yêu nước cũng là phương diện cơ bản của nhân đạo.Tuy vậy cảm hứng nhân đạo cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao gồm những nguyên tắc đạo lílàm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ,đặc biệt là với trẻ em, với phụ nữ và những người lương thiện bị hãm hại, những người hồng nhanmà bạc mệnh, những người tài hoa mà lận đận…Những nội dung nhân đạo đó đã được thể hiện ởtrong toàn bộ văn học trung đại, những biểu hiện tập trung nhất là ở trong các tác phẩm văn học nửasau thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là trong những tác phẩm thơ.
Nội dung cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại có ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng từ bi bác áicủa đạo phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho.
Trong thơ trung đại Việt Nam có thể kể ra rất nhiều những tác phẩm mang nội dung nhân đạo như:Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của NguyễnGia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn ĐìnhChiểu,...
Trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đó là tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với tư tưởngyêu nước và độc lập tự do của Tổ quốc:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhà nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Trước hết đó là tấm lòng cảm thông của tác giả dành cho những con người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội đã bị bọn giặc ngoại xâm đàn áp dã man:
Nướng dân đen lên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyền Gia Thiều đó là việc lên án chế độphong kiến chà đạp lên quyền sống cảu người phụ nữ, lên những số phận tài hoa. Xã hội đó đã tướcđoạt đi những quyền sống thiêng liêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếngnói bênh vực người phụ nữ những người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếngnói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đoạt đi những quyền sống thiêngliêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ nhữngngười chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếngnói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi biết bao nhiêu cảnh sống yênvui, chia lìa bao nhiêu đôi lứa. Qua lời của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm - ĐặngTrần Côn muốn lên án cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa đó là nỗi nhớ người chồng nơi chiến trường gian khổ.
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo éc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Nỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Những cuộc chiến tranh này thực chất chỉ là việc tranh quyền đoạt lợi của các tập đoàn phong kiếnvà phủ lên nó là một bầu trời đầy tang thương. Thế lực đồng tiền cũng đã phủ mờ đi những néttruyền thống tốt đẹp của xã hội đó là với trường hợp nàng Kiều. Trong xã hội trung đại, thế lực đồngtiền cũng rất đáng lên án vì nó đã vùi lấp và nhấn chìm đi biết bao những con người tài hoa, những con người có khát vọng hoài bão lớn muốn đem sức lực nhỏ bé của mình cống hiến cho sự nghiệpcủa dân tộc.
Văn học trung đại đã chứng minh cho tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam. Đó là mộtdân tộc có những truyền thống tốt đẹp. Quay trở lại với bài Đại cáo bình Ngô sau khi đánh thắngquân xâm lược nhà Minh, quân và dân ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù chứ không phải đuổicùng giết tận, việc làm nhân đạo đó chẳng những đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộcmà còn thể hiện niềm khát vọng được sống trong hòa bình của nhân dân.
Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể hiện qua những nét chủ yếu sau:
Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình cảm của tác giả dành cho những con người nhỏ bé chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội qua đó mà đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tìnhcảm như vậy, các tác giả thơ thời kì này mới viết được những dòng thơ, trang thơ xúc động đến nhưthế.
Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con người với con người, đề cao tình bạn, tìnhanh em, tình cha con, thể hiện mong muốn được sống trong hòa bình.
Thơ trung đại đã thể hiện bước đi vững chắc của mình trong hơn mười thế kỉ, đó là sự tiếp nối bướcđi của nền văn học dân gian. Tuy văn học dân gian thời kì này vẫn phát triển nhưng dấu ấn khôngcòn như trước. Thơ trung đại đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo qua đó mà làm tiền đề cho sự phát triển văn học các thời kì tiếp theo.

nhớ k cho mk nhé mk làm đầu

Khách vãng lai đã xóa
Linh Thùy
Xem chi tiết
Vương Hương Giang
20 tháng 12 2021 lúc 15:56

Trong nền văn học trung đại của nước nhà, có rất nhiều bài thơ hay và tiêu biểu, những tác phẩm đó đều được ông cha ghi lại và lưu truyền để con cháu mai sau được học hỏi, tiếp thu tinh thần văn hoá, dân tộc của thời đại. Trong đó, hai bài thơ "Sông núi nước nam" và bài thơ "Phò giá về kinh" là những thi phẩm xuất sắc của văn học giai đoạn này. Ra đời trong những thời điểm khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều thể hiện được tinh thần dân tộc, tình yêu nước và lòng tự hào trước những chiến công hào hùng của quân dân ta, bởi vậy mà khi đánh giá về hai tác phẩm này, có ý kiến cho rằng: "Tuy ra đời ở 2 thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ lại có nhiều điểm tương đồng".

Bài thơ "Sông núi nước nam" đến hiện tại vẫn chưa có sự khẳng định nào chắc chắn về tác giả của bài thơ, song theo nhiều sách cho rằng đó là sáng tác của vị tướng tài ba Lý Thường Kiệt. Theo nhiều lời kể của người xưa thì vào năm 1077, khi nhà Tống đưa quân sang xâm lược đất nước ta dưới sự chỉ huy của teen cầm đầu là Quách Quỳ, Lý Thường Kiệt theo lệnh nhà vua đem quân ra chặn chân giặc ở phòng tuyến dòng sông Như Nguyệt, thuộc huyện Yên Phòng, Bắc Ninh ngày nay. Trong cuộc đấu, để khích lệ tinh thần của quân đội mình cũng như làm lung lay ý chí chiến đấu của kẻ thù, Lý Thường Kiệt đã sáng tác bài thơ này. " Sông núi nước Nam" được cất lên lần đầu tiên tại đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát- những vị tướng anh hùng, nghe tiếng thơ, tinh thần của nghĩa quân càng được khơi dậy, ý thức dân tộc càng lớn và lòng căm thù giặc càng sâu sắc. Còn bài thơ "Phò giá về kinh" được sáng tác bởi Trần Quang Khải, sau hai chiến thắng lẫy lừng Chương Dương và Hàm Tử, trong dịp ông trên đường đón Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về kinh thành Thăng Long vào năm 1285. Tuy sáng tác vào những hoàn cảnh và thời gian khác nhau, song ta vẫn thấy được ở cả hai bài thơ đều có những điểm giống nhau, bởi vậy mà có người từng nhận xét rằng: "Tuy ra đời ở 2 thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ lại có nhiều điểm tương đồng."

Thật vậy, trước hết, ta có thể thấy cả hai bài thơ đều được sáng tác từ những người anh hùng của dân tộc, họ không chỉ mưu lược tài giỏi mà còn có tài năng về thơ văn, đặc biệt là một tinh thần đấu tranh quyết chí và một trái tim trung thành tuyệt đối với nước vì dân. Cả Trần Quang Khải và Lý Thường Kiệt đều là những vị tướng đích thân cầm quân giết giặc. Nếu Lý Thường Kiệt từng nổi danh với chiến công triệt hạ ba căn cứ lớn là Ung Châu, Liêm Châu, Khâm Châu của quân Tống vào năm 1076 hay chiến thắng vang dội trong cuộc chiến trừng phạt quân chiêm Thành năm 1069 thì Trần Quang Khải cũng là một lĩnh tướng trí tuệ và dũng mãnh, dưới triều đại nhà Trần, ông đã phụng sự hết sức mình cho đất nước, lãnh đạo quân đội đánh bại quân giặc trong nhiều trận chiến, đặc biệt là trận Chương Dương và các trận phòng thủ ở Thanh Hoá, Nghệ An. Bởi vậy mà họ hiểu hơn ai hết giá trị của những chiến công, giá trị của hoà bình, giá trị của tự do với mỗi quốc gia dân tộc.

Thứ hai, cả hai bài thơ đều khẳng định được chiến thắng tất yếu của nhân ta ta, tuy cách thể hiện khác nhau nhưng đều tựu chung về thắng lợi của quân đội chính nghĩa và thảm bại của quân tàn ác, phí nghĩa:

Lý Thường Kiệt viết:

" Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời"

Hành động xâm phạm một lãnh thổ của quốc gia là trái với đạo lý nhân nghĩa, trái với ý người, đi ngược lại với ý trời. Hành động ấy không thể dung thứ, những kẻ ngang nhiên gây họa rồi một ngày cũng bị đánh" tơi bời" mà thôi. Với Trần Quang Khải, tác giả lấy những chiến công của quân ta để khẳng định sự thua cuộc tất yếu của giặc:

" Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù"

Một khí thế hào hùng với cuộc chiến oanh liệt như được tác giả dựng trước mắt chúng ta. Dù là nước nhỏ, quân đội không đông nhưng bằng mưu cao với tinh thần đoàn kết một lòng, quân đội nhà Trần luôn trong tư thế chủ động: "cướp giáo giặc", "bắt quân thù". Những hành động dứt khoát, dũng mãnh, khí thế ấy khiến giặc phải" hồn lạc phách xiêu", bại trận ê chề, đau đớn.

Qua cả hai bài thơ ta thấy được đằng sau những chiến thắng ấy là ý thức dân tộc, là tinh thần đấu tranh bền bỉ quật cường và ý chí quyết tâm giành thắng lợi của nhân dân ta, dẫu cho ở thời gian nào đi nữa.

Điểm tương đồng thứ ba ở hai bài thơ phải kể đến là sự khẳng định về độc lập, chủ quyền dân tộc. Ở "Nam quốc sơn hà" , tác giả khẳng định lãnh thổ nước nhà bằng lời lẽ đanh thép, chắc chắn:

" Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm"

Trời, đất, nước Nam là của vua Nam, do vua Nam cai trị, điều ấy là hợp lẽ tự nhiên, trời cao đã định không gì có thể chối bỏ được. Lũ giặc kia sang xâm phạm là hành động phi đạo đức ,tàn ác, gian tà trắng trợn. Tố cáo tội ác của giặc cũng là để khẳng định lại một lần nữa nước Nam là của vua Nam, không ai được phép xâm lấn bờ cõi này. Đến với "Phò Giá về kinh", Nguyễn Quang Khải khẳng định chủ quyền bằng ươc mơ, khát vọng đất nước thịnh trị, yên vui. Bởi đất nước có hết xâm lăng thì chủ quyền mới vững bền, lãnh thổ mới giữ trọn.

" Non nước ấy ngàn thu"

Thứ tư, cả hai bài thơ đều có tác dụng rất lớn trong việc khích lệ, kêu gọi tinh thần trách nhiệm của mỗi người dân trong việc đoàn kết, đứng lên chiến đấu vì đất nước, vì Tổ quốc mình. Nếu ở "Nam quốc sơn hà" là lời hiệu triệu dân tộc dẹp tan quân thù bằng cách mạng chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của mình trước những bàn tay máu lạnh của quân xâm lược thì ở "Phò giá về kinh", tác giả kêu gọi mọi người hãy đề phòng, cảnh giác, khi hoà bình không được chủ quan mà cần cảnh giác cao độ, luyện sức, luyện tài để bảo vệ dựng xây, phát triển đất nước.

Hai bài thơ chính là vũ khí vô cùng sắc bén chống giặc ngoại xâm, cổ vũ tinh thần tập thể, lòng yêu nước, ý thức cá nhân trong mỗi con dân đất Việt.

Ngoài ra, ta còn thấy ở đây điểm tương đồng về nghệ thuật, mỗi bài đều chỉ có bốn câu nhưng có sức cô đọng, hàm súc, nội dung, tư tưởng được thể hiện rõ. Ngôn ngữ hùng hồn, đanh thép nhưng không hề thô cứng mà tự nhiên, xúc động.

Qua bao thời gian mà những vần thơ ấy vẫn còn mãi, trở thành những áng văn bất hủ ngàn đời. Chúng em hôm nay đây, những thế hệ trẻ được sống trong hoà bình, trong một môi trường yên vui, không bom đạn, không giáo mác chiến tranh khi đọc những vần thơ đều bùi ngùi khó tả. Em hiểu hơn về những hy sinh của cha ông đi trước, thêm tự hào bởi tinh thần đấu sĩ nơi chiến trường của dân tộc và càng ý thức hơn về trách nhiệm của chúng em hôm nay. Phải gắng sức học tập, dựng xây non nước ngàn thu bền vững, giàu mạnh, tiếp nối những chiến công năm xưa của những người hùng vĩ đại.

Ki bo
Xem chi tiết
Dạ Nguyệt
30 tháng 10 2016 lúc 9:37

Mình thấy bạn làm cũng hay rồi màhihi

Ki bo
29 tháng 10 2016 lúc 21:33

- Các bạn giúp mình nhé ! Mình sẽ tick hết cho ^^

 

Lê Thảo Anh
2 tháng 11 2016 lúc 19:50

Bài bn làm cũng hay đấy nhưng mk nghe cô giáo mk bảo là bài " Nam quốc sơn hà " tác giả ko phải Lý Thường Kiệt

Nguyễn Nhật Mai
Xem chi tiết
Thanh Hiền
Xem chi tiết
Quân
Xem chi tiết
Nhã Trúc
Xem chi tiết
Lê Văn Minh Triết
8 tháng 5 2023 lúc 13:42

"Bình ngô đại cáo" là một áng văn lưu danh thiên cổ của một bậc toàn tài hiếm có Nguyễn Trãi, được mệnh danh là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Bài cáo là tình yêu nước sâu sắc cùng lòng căm thù ngoại xâm tột độ mà đoạn trích "Nước Đại Việt ta" là đỉnh cao của tinh thần yêu nước.

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nguyễn Trãi đã chỉ ra yếu tố đầu tiên của lòng yêu nước đó là nhân nghĩa. Yêu nước tức là yêu tổ quốc, thương đồng bào và yêu cái truyền thống quý báu mà cha ông để lại. Truyền thống ấy ở đây chính là nhân nghĩa, là lòng nhân trong cách đối xử giữa người với người. Mà theo Nguyễn Trãi thì cốt lõi của lòng mọi việc nhân nghĩa trên đời ấy chính là "yên dân" làm sao cho dân ấm no, yên ổn. Mà trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng thì muốn yên dân cần điếu phạt, trước hết là trừ đi quân bạo tàn hà hiếp nhân dân. Tức là lấy dân làm gốc. Nguyễn Trãi đã từng quan niệm "Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân". Nhân dân chính là lực lượng quyết định cốt lõi trong vận mệnh quốc gia dân tộc, có nhân dân chính là có nguồn sức mạnh to lớn, quốc gia có mất thì cũng sẽ lấy lại được, tức là không mất gì hết nhưng mất đi nhân dân, quốc gia còn thì cũng chỉ là mảnh đất vô hồn, vô chủ. Vậy nên yêu nước chính là yêu dân, chứ không còn là chỉ yêu vua như trước nữa. Việc Nguyễn Trãi nói hai câu này ngay đầu bài cáo Bình Ngô chính là để khẳng định một tư tưởng về việc nhân nghĩa vững bền, đó là cơ sở cho tình yêu nước.

Tiếp theo sau đó, những chứng cớ về một quốc gia có độc lập chủ quyền lần lượt được đưa ra hết sức có cơ sở:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Không còn là sự khẳng định mông lung về bờ cõi trong "thiên thư" như cách nói của Lý Thường Kiệt nữa mà dẫn chứng được đưa ra rõ ràng để khẳng định nước ta là một nước có nền độc lập tự chủ từ lâu đời. Nước ta có tên "Đại Việt" có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, có phong tục, tập quán, có lịch sử các thời đại có thể sánh ngang hàng với những thời đại lớn trong lịch sử Trung Hoa đồng thời còn có nhân tài. Một vùng lãnh thổ có đầy đủ những yếu tố như vậy thì hoàn toàn xứng đáng là một quốc gia có độc lập chủ quyền và là một quốc gia có quyền tự hào về độc lập chủ quyền của dân tộc mình. Tình yêu nước thể hiện ở đoạn này chính là những chứng cớ rõ ràng về lòng tư tôn dân tộc, chính vì lòng tự tôn ấy, ông chỉ ra hệ quả tất yếu của những tên xâm lược:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.

Chứng cớ về những thất bại nhiều lần của tướng giặc cho thấy chúng đã phạm sai lầm khi cố tình giày xéo dân ta dưới gót giày bạo tàn, chúng đã phải trả giá cho những điều ấy bởi tinh thần yêu nước, sự đoàn kết của nhân dân cả nước cùng sự tài ba chính nghĩa của những vị anh hùng nước Nam.

Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" cho ta nhiều suy nghĩ về tình yêu nước mà quan trọng nhất đó là yêu tổ quốc chính là yêu đồng bào, yêu dân, làm sao lo cho dân được yên ổn, no ấm.