bạn hãy sưu tầm những câu ca dao tục ngữ địa phương của mk
Nghệ An [20 bài]
- Nhất cao là núi Ba Vì
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
- Sông Lô một dải trong ngần
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên
- Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu
Nam Chân, bắc Dũng, đông Kỳ, tây Lạc
- Nước Thanh Lanh, ma kẽm Dõm
Nước Thanh Lanh, ma Ngọc Bội
-Mang Cả trông sang
Mang Con thài mại
Đứng lại mà trông
Chín đời quận công
Mười đời tiến sĩ
- Ai về Hậu Lộc Phú ĐiềnNhớ đây Bà Triệu trận điền xung phong.- Ai lên Biện Thượng, Lam SơnNhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh.- Có chàng Công Tráng họ ĐinhDựng luỹ Ba Đình chống đánh giặc Tây- Vĩnh Long có cặp rồng vàngNhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần.- Gò Công anh dũng tuyệt vờiÔng Trương “đám lá tối trời” đánh Tây.- Phất cờ chống nạn xâm lăngTrương Công nghĩa khí lẫy lừng trời nam.( Ca ngợi Trương Công Định )- Ru con con ngủ cho lànhCho mẹ gánh nước rửa bành cho voiMuốn coi lên núi mà coiCoi bà Triệu tướng cởi voi đánh cồng.- Từ ngày Tự Đức lên ngôi,Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như ri.Bao giờ Tự Đức chết đi,Thiên hạ bình thì mới dễ làm ăn.( Bình thì: thời bình; Thì là là húy của Vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) .- Từ khi Tự Đức lên ngôiVỡ đường Thiệu Trị vỡ đôi năm liềnMong cho thiên hạ lòng thuyềnTrong làng lại có chiếc thuyền đi qua.- Trách lòng Biện Nhạc chẳng minhLàm cho con gái thất kinh thất hồnTrách lòng biện Nhạc làm kiêuLàm cho con gái nhiều điều phiền lo.
Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng
Thanh vô tiền,Nghệ vô hậu
Ai về Biên Thượng Lam Sơn
Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường đánh Minh
các bn sưu tầm giùm mk 20 bài thơ, ca dao nói về tục ngữ địa phương nhé
Ở nghệ an nha mn
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Giúp dân dẹp loạn trả thù mình,
Chị rủ cùng em kết nghĩa binh.
Tô Ðịnh bay hồn vang một trận,
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.
Mới dày bảo vị gia ơn trọng,
Ðã đội hoa quan xuống phúc lành.
Còn nước còn non còn miếu mạo,
Nữ trung đệ nhất đấng tài danh.
NHỊ TRƯNG MIẾU
Lục thập dư thành tận vọng phong,
Thùy tri nữ tử diệc anh hùng.
Đương thì khởi đặc bình Tô Định,
Mã Viện cơ phi “Quắc thước ông”
Đặng Minh Bích
Dịch thơ:
Hơn sáu mươi thành hết sức trông,
Ai hay nhi nữ cũng anh hùng.
Há riêng Tô Định tan thần xác,
Mã Viện chi còn “Quắc thước ông” !
Nhóm Lê Quí Đôn dịch.
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận phường tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã đến gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi mà chống anh hùng được nao
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo
Chị em thất thế cùng liều với sông
Phục Ba mới dựng cột đồng
Ải quan truyền đến biên công cõi ngoài
Trưng Vương vắng mặt còn ai
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Đại Nam quốc sử diễn ca.
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi nghìn thu.
Vì nước thương người khuất,
Xúm tay chỉ đứa thù.
Non sông tươi nét mặt,
Hào kiệt hổ chòm râu.
Ai biết, ai không biết,
Hồ Tây nước thẳm sâu.
Đặng Văn Bá.
*
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Trăm năm trong cõi người ta,
Khí thiêng chung đúc một nhà lạ thay.
Kìa xem sử Việt xưa nay,
Thoa quần mà cũng có ngày đế vương.
*
Giai nhân nan tái đắc (1)
Trong doanh hoàn dễ được mấy Trưng Vương.
Hội phong trần sinh ở xứ Đông Dương,
Vững gan sắt lấy cương thường làm trọng.
Quốc sĩ phu thù thiên bất cộng
Tỷ trinh muội liệt thế vô vong (2)
Đem phấn son thay lấy việc anh hùng,
Lưỡi thư kiếm chẳng dong phường khấu tặc.
Đuổi Tô Định thẳng về đất Bắc,
Rửa tanh hôi mà gánh các lấy non sông,
Làm gương cho khách quần hồng.
Nguyễn Ngô Đoan
Chú thích:
(1) Ý nói người đẹp khó mà có lại được.
(2) Nhục nước thù chồng thề không đội trời chung với giặc
Chị tiết trinh, em oanh liệt đời không bao giờ quên.
*
VỊNH BÀ TRƯNG
Phải đánh vì chưng giặc đến nhà
Xếp nghề kim chỉ giở can qua
Đền xong nghĩa cả, em cùng chị
Trả được thù chung, nước lẫn nhà
Một thuở Mê Linh, nền kiếm kích
Ngàn năm Lãng Bạc dấu hương hoa
Anh hùng sá kể câu thành bại
Quắc thước ra gì tướng Phục Ba.
Khuyết Danh
*
VỊNH TRƯNG VƯƠNG
Tượng đá trời Nam dãi tuyết sương
Ngàn năm công đức nhớ Trưng Vương
Tham tàn trách bởi quân gây biến
Oanh liệt khen cho gái dị thường
Liều với non sông đôi má phấn
Giành nhau nòi giống một da vàng
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên
*
VỊNH BÀ TRƯNG
Nỡ để non sông tỏa khói mù
Ra tay vùng vẫy với thằng Tô
Chị cùng em, quyết nâng bầu huyết
Nước với nhà, chung trả mối thù
Sáu chục thành trì chia Hán Việt
Ba năm đường bệ cũng Thương Chu
Năm canh thức dậy hồn oanh liệt
Sóng dỡn Tây Hồ, bóng nguyệt thu.
*
Qua chốn Mê Linh viếng cựu đô
Giang san còn nhận dấu thơm tho
Ngọn cờ phất, sạch thù ông Sách
Lưỡi kiếm đưa, tan mật chú Tô
Há để bùn than nhơ vũ trụ
Quyết đem son phấn nhuộm dư đồ
Mày râu ướm hỏi quân luồn cúi
Khoát nước Hồ Tây rửa thẹn thò.
Song Ngư Nguyễn Tất Minh.
*
ĐỀ VỊNH TRƯNG VƯƠNG
Ngựa Gióng đã lên không
Rừng Thanh voi chửa lồng (1)
Nẩy chồi hoa nụ Lạc
Mở mặt nước non Hồng
Trăng rọi gương hồ Bạc
Mây tan dấu cột đồng
Nén hương lòng cố quốc
Xin nhắn một lời chung.
Hoàng Thúc Hội
(1):Chỉ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
*
TƯỞNG NHỚ TRƯNG VƯƠNG
Tưởng nhớ ai xưa mãi đến giờ
Con dòng Lạc tướng luyện binh cơ
Thành Mê tuốt kiếm bêu đầu giặc
Sông Hát dồn quân hướng sắc cờ
Giao Chỉ ngọn triều lên cuồn cuộn
Phong Châu bóng liễu rủ lơ thơ
Đất Long Biên cũ, người đâu cũ
Cây cỏ bâng khuâng những đợi chờ ! . . .
Ngân Giang
*
TRƯNG NỮ VƯƠNG
Thù hận đôi lần chau khóe hạnh,
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi.
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm,
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi.
Ngang dọc non sông đường kiếm mã,
Huy hoàng cung điện nếp cân đai.
Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa,
Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai.
*
Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ,
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai.
Hồn người chín suối cười an ủi,
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi.
Lạc tướng quên đâu lời huyết hận,
Non Hồng quét sạch bụi trần ai.
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận,
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời.
*
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi. . .
1. Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ nghệ thì vô
2.
Non Hồng ai đắp mà cao,
Sông Lam ai bới, ai đào mà sâu?
3.
Hồng sơn cao ngất mấy trùng
Lam Giang mấy trượng thì lòng mấy nhiêu
4.
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người
5.
Trèo lên chót vót Hai Vai
Ra tay khoát gió khoác vai ông Đùng.
6.
Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lục chợ Hạ, uống chè Hương Sơn.
7.
Đọi nước chè em múc ra
Khặm đụa vô nỏ bổ
8.
Ai về Hồng Lộc thì về
Ăn cơm cá Bàu Nậy,
Uống nước chè khe Yên
9.
Ai về Cửa Hội quê tôi
Cá thu, cá nục, cá mòi thiếu chi.
10.
Ai về Thạch Hạ mà coi
Bắc nồi lên bếp xách oi ra đồng.
11.
Ai hay mít ngọt, trám bùi
Có về Cát Ngạn với tui thì về.
12.
Quê ta ngọt mía Nam Đàn
Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài.
13.
Bánh đa chợ Cày, bánh tày chợ Voi
Bánh đúc cháo kê là nghề làng Trại
14.Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn
15.
Quê tôi vốn ở Nguyệt Đàm
Tôi đi bán hến chợ Sa Nam gần kề
Hến tôi ngon gớm ngon ghê
Ai muốn ăn hến thì về quê tôi
16.
Lắm ló Xuân Viên, lắm tiền Hội Thống,
Lắm nống Do Nha, lắm cà Lộc Châu,
Lắm dâu Cẩm Mỹ, lắm bị Kẻ Giăng,
Lắm măng Kẻ Cừa, lắm bừa Trung Sơn,
Lắm cơn Yên Xứ
17.
Kẻ Dặm đục đá nấu vôi
Miệng thì thổi lửa, tay lôi rành rành
18.
Trai Đông Thái gái Yên Hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên
19.
Đặng Sơn người đẹp nước trong
Dâu non xanh bại, tơ tằm vàng sân
20.Xôi nếp cái, gái Tràng Lưu
CHÚC BẠN HỌC TỐT!
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu
Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:
Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền
Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú: Là trình bày, diễn tả...
Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...
Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:
Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em
Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa
....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành
HÃY SƯU TẦM NHỮNG CÂU CA DAO, TỤC NGỮ NÓI VỀ ĐỊA PHƯƠNG EM
GIÚP MK NHÉ, NƠI NÀO CŨNG ĐC BN Ạ!!
Ai về Quảng Ngãi mà xem
Bãi tơ vàng óng đồng ken lúa vàng
Xóm thôn sực nức mùi đàng
Nhắp chè Tam Bảo luận bàn văn chương
2 Ai về núi Ấn sông Trà
Có thương cô bậu ghé nhà mà thăm
3 Ai về Quảng Ngãi
Cho tôi gởi ít tiền
Mua giùm miếng quế lâu niên
Đem về trị bệnh khỏi phiền bà con
4 Ai đi bờ đắp một mình
Phất phơ chéo áo giống hình vợ tôi
5 Ai về Cổ Lũy cô thôn
Nước sông Trà Khúc sóng dồn lăn tăn
6 Ai về quê ấy Nghĩa An
Ghé thăm phong cảnh chùa Hang, Bàn Cờ
7 Ai về Cà Đó
Chịu khó xách ky
Tay cầm đôi đũa
Lưng đi lòm khòm
8 Ai về Long Phụng thì về
Có sông tắm mát giếng kề một bên
9 Ai về Cổ lũy, xóm câu
Nhớ mua đôi chiếu đón dâu về làng
10 Ai về Quảng Ngãi, Ba Tơ
Rừng thiêng nhớ buổi dựng cờ đánh Tây
11 Ai về Sơn Tịnh quê ta
Đừng quên chiến thắng Ba Gia lẫy lừng
12 Ai kêu ai hú bên sông
Tui đang vá áo cho chồng tui đây
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ gánh dây đi trồng
Đạp xe lấy nước tràn đồng
Lập lăng thờ mẹ ẳm bồng em xưa
13 Ai đi trên đập một mình
Phất phơ chéo áo giống hình phu quân
14 Ai về An Đại nhắn lại vài lời
Duyên nợ tại trời, bớt nhớ bớt thương
Giục mã đơn đường, dứt tình đi sợ tội
Tiếc công anh lặn lội nhiều ngày
Bảng có treo mược bảng, thơ có bày mược thơ
15 Ai đem con én qua sông
Cho nên con én ngồi buồn rỉa lông
Chim khôn quen lấy cái lồng
Cá khôn quen dịch vợ chồng quen hơi
Cá về biển Bắc nghỉ ngơi
Chim dựa gầm trời ngày tháng đinh ninh
Cách xa nhắn một chữ tình
Cảm thương cho bạn một mình bạn ơi
16 Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên
17 Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu
18 Anh ra đi lính cho làng
Nước mắt ròng ròng nhớ mẹ nhớ cha
Cực vì ông nớ trong tòa
Sức anh đi lính vậy mà phải đi
Ra đi tới rặng Trà Mi
Thấy kẻ thăm con người thăm cháu thiếp đi thăm chàng
Đi ra vừa tới ngoài Hàn
Thấy lính đi tập dư ngàn dư trăm
Thiếp thương chàng mới ghé qua thăm
Chàng qua nước bển biết mấy mươi năm chàng về
Thôi thôi em trở lộn về
Nuôi cha với mẹ trọn bề hiếu trung
19 Anh thương em đừng cho ai biết
Đừng cho ai biểu, đừng cho ai bày
Thâm thâm dìu dịu mỗi ngày mỗi thương
Nước mía trong nấu lọc thành đường
Anh thương em thì anh biết chớ thói thường biết đâu
20 Anh thương em đừng cho ai biết, đừng cho ai hay
Đừng cho ai biểu, đừng cho ai bày
Thâm thâm dìu dịu mỗi ngày mỗi thương
Nước dưới sông ai sá dễ đong lường
Bạn có thương ta bạn biết chớ thói thường có biết đâu
21 Anh sảy thì em lại cào
Lúa bắp mới đặng đầy bồ, đầy chum
22 Anh đi bỏ võng ai nằm
Bỏ dâu ai hái, bỏ tằm ai nuôi
23 Anh muốn chơi đờn bản năm dây
Nhà em cũng có năm cây đờn cò
Đờn kêu tiếng nhỏ tiếng to
Đờn bài Lưu thủy xang hò thì xang
Đờn kêu tích tịch tình tang
Đờn kêu cho thấu tai chàng chàng ơi
Đêm năm canh lặng gió thanh trời
Đó anh khoan giấc ngủ đặng nghe lời em phân
24 Anh ra đi đi lính cho làng
Thượng văn hạ võ làm quan triều đình
Ra đi có tướng có binh
Lên lưng con tuấn mã ra kinh một hồi
Phò vua một dạ trên ngôi
Em tưởng anh có ngãi em ngồi em trông
Hay đâu anh bạc ngãi vong ân
Liệng ra biển Bắc trôi lần biển Đông
Bấy lâu tưởng ngãi vợ chồng
Hay đâu tác nước biển Đông một mình
25 Anh về trồng trúc ngay hàng
Trồng tre ra trái đây nàng theo không
26 Anh thương em xách rượu qua cầu
Đứt dây rượu đổ
Trầu sổ trầu trôi
Cái lá trôi xuống
Cái cuống trôi lên
Làm người chẳng sự sao nên
Anh thương em đỡ đỡ thương bền đặng lâu
27 Anh nói với em không thiệt không thà
Đùng đình ra trái nửa già nửa non
Anh nói với em anh chưa vợ chưa con
Con đâu mà khóc đầu non tè tè
Thôi thôi anh trở lộn về
Trước nuôi cha mẹ sau trọn bề gia phong
28 Anh thương em thì đừng có luân con mắt, đừng có quẹt ngón
tay
Người ta đông như hội cứ thẳng ngay mà nhìn
Miếng trầu miếng thuốc em không xin
Thuốc anh anh hút đừng đưa, đừng mời
Miệng thế gian họ đồn thổi anh ơi
Cứ giả lơ làm lảng như hồi chưa quen
29 Anh ơi giữ đạo tam cang
Dù sanh dù tử cũng giữ cho toàn trước sau
Anh ơi đừng có ham giàu
Tỉ như con chim kêu núi Bắc, con cá sầu biển Đông
Có duyên thì vợ thì chồng
Không duyên ở vậy lập vườn hồng trồng hoa
Hỡi người bạn cũ gần xa
Ham nơi phú quý bỏ nghĩa ta sao đành
30 Anh gặp em đây như vợ gặp chồng
Thác như đòn gánh gãy giữa đồng gặp tre
Anh gặp em đây như chén gặp ve
Thác như bình tích gặp chè Ô Long
31 Anh đi đâu bỏ quạt lăn châu
Bỏ thương bỏ nhớ bỏ sầu lại đây
Anh đi đâu bỏ cửa bỏ nhà
Bỏ ba cây kiểng cho gà nó bươi
32 Anh có vợ trước anh có con trước
Em lấy chồng sau em có con sau
Lúa đen trổ trước phơi màu
Trì trì trổ muộn hai màu giống nhau
33 Anh với em như quế với gừng
Dẫu xa nhân nghĩa xin đừng tiếng chi
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké giây trầu một bên
Bao giờ trầu nọ lớn lên
Cau kia có trái thì nên vợ chồng
34 Anh chẻ tre bện sáo ngăn sông
Kịp khi đó vợ đây chồng kết đôi
Anh chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn sông Trà Khúc chờ ngày gặp em
35 Anh thương em anh để đó đã
Chèo ghe ra giã mua bộ chén chung
Chén lớn sơn đỏ, chén nhỏ sơn vàng
Rượu lưu ly chiết để hai hàng
Cha với mẹ nhận lễ, thiếp với chàng gầy duyên
36 Anh có thương em thì anh để đó đã
Đi lên chợ giã mua bộ chén chung
Chén lớn sơn đỏ, chén nhỏ bịt vàng
Rượu lưu ly thiếp để hai hàng
Cha với mẹ uống trước thiếp với chàng uống sau
37 Anh thương em không lẽ anh thương thầm
Thương thì rượu quế trầu mâm tới nhà
38 Anh về mỗi bước mỗi biên
Bước bao nhiêu bước dạ anh phiền bấy nhiêu
39 Anh về dưới nớ em ở lại trên ni
Dặn em hai chữ nhớ ghi vào lòng
Thương nhau nước đục cũng trong
Ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ
Mực sa xuống giấy thành thơ
Đừng nghi mà tội đừng ngờ mà oan
Kề tai nghe tiếng anh than
Trước sao sau vậy giữ đàng thủy chung
40 Anh về bán ruộng cây da
Bán đôi trâu già mới cưới đặng em
41 Anh về bán cái nồi rang
Bán đôi đũa bếp cưới nàng còn dư
42 Anh về tìm vảy con cá trê
Tìm gan con tôm sú tìm mề con lươn
Bao giờ bún nọ có xương
Dây tơ hồng có rễ thiếp mới thương đặng chàng
43 Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
44 Anh đi ba bữa anh về
Rừng sâu nước độc chớ hề ở lâu
45 Anh đi em mới trồng hoa
Anh về hoa nở được ba trăm nhành
Một nhành là chín búp xanh
Bán ba đồng một để dành một nơi
Tiếng anh ăn học một đời
Cậy anh tính thử vốn lời bao nhiêu
46 Anh có vợ trước lâm đàng cực khổ
Em có chồng sau đặng chữ thanh nhàn
Ra đi cáng võng nghinh ngang
Nghiêng mình xuống cáng chào chàng, cảm ơn
Con chim huỳnh nó đậu cành sơn
Ở sao cho trọn nghĩa thì hơn bạc vàng
47 Anh có vợ trước lâm đàng cực khổ
Em có chồng sau đặng chỗ giàu sang
Ra đi quân lính hai hàng
Nghiêng mình xuống võng chào chàng buổi xưa
Chào rồi thiếp đón chàng đưa
Đây em đà trọn nghĩa sao anh chưa trọn tình
48 Anh trách con chim bạc con chim không bạc
Lồng kia rách nát lưới nọ rã rời
Lồng treo một nơi sào dựng một ngả
Con chim chết trong lòng bụng dạ thảo ngay
49 Anh gặp em đây con bóng vừa trưa
Nghĩa đà hết nghĩa tình chưa phỉ tình
50 Anh xách bầu rượu tới đó
Thôi anh chịu khó xách về
Giàu nghèo em chẳng dám chê
Để em nuôi từ mẫu cho trọn bề hiếu trung
51 Anh đi lên
Em gởi thơ lên
Anh đi xuống
Em gởi thơ xuống
Đương ăn đương uống
Ngừng đũa coi thơ
Coi được nửa tờ
Ruông ruống nước mắt
Thiếp Bắc chàng Nam
Em cam bụng chịu
52 Anh đưa em về từ thuở mười ba
Công việc cửa nhà giao hết cho em
Bây giờ tuổi tác hom hem
Anh đi theo nẫu tòm ten sao đành
53 Anh đốn thì anh lấy
Máu ai thâm thịt nấy, tội gì em lo
Hổ phụ sinh hổ tử
Long mẫu xuất long nhi
Qua với em rủi có điều chi
Chín trăng anh không bỏ nữ nhi một mình
54 Anh thương em anh mới đi đêm
Té xuống bờ ruộng đất mềm không đau
Cảm thương chỗ đất không đau
Anh về bữa trước bữa sau em xa rồi
55 Anh với em cùng ở một làng
Bởi anh chậm bước nên đôi đàng cách xa
Bây giờ trách mẹ hờn cha
Trách trong căn số sinh ra lỗi giờ
Trách cùng bà Nguyệt ông Tơ
Xe Nam xe Bắc sao hai đứa mình không xe
56 Anh biểu em về dọn dẹp trong nhà
Mượn gấm cùng phản lót ra ba bốn từng
Họ hàng anh không để đi chưn
Đi xe cùng kiệu, trắp bưng không thiếu gì
Em ơi em chớ có đòi chi
Để qua về qua định liệu qua đi cho nàng
Qua đi cho em một quả hột xoàng
Cây trâm hột ngọc dây loan đủ rồi
Kiềng đồng, kiềng bạc, cà rá đủ đôi
Bông tai vàng nở, lược đồi mồi huyên thiên
Ăn rồi các họ đi liền
Những ngựa cùng ché theo liền một trăm
No nê hể hả thì nằm
Kẻ nằm lên võng người nằm kiệu mây
Bà con cô bác sum vầy
Xôm xôm bước tới đà đầy chật sân
Sui gia đây đó xa gần
Kẻ thời cột ngựa, người lần hiên mai
Thầy hương, bá hộ, tú tài
Thầy chánh, thầy phó, thầy cai những là
Một trăm hai họ đàn bà
Bà chánh, bà phó, bà già bước vô
Những còn ông chú, bà cô
Ông cậu, bà bác lô nhô hai hàng
Lẽ gì em lên em chào hết các quan
Em chào luôn tiếng nữa họ hàng bên qua
Lẽ gì trầu rượu em bưng ra
Trước em chào hai họ, sau em ra em nhận vàng
Hai bên xứng mặt giàu sang
Cha với mẹ đứng đó thiếp với chàng hòa duyên
57 Anh với em gá nghĩa tam tùng
Lạy cha cùng mẹ định dùm con thơ
Mau mau trời đã đến giờ
Những xe cùng ngựa đứng chờ ngoài sân
Cuối đầu mà lạy mẫu thân
Bước lên võng lược thẳng đàng theo anh
58 Anh về chẳng biết lấy gì đưa
Bánh trâm, bánh lạc, bánh lá dừa đưa anh
59 Anh đà biết ngõ em chưa
Ngõ em ngõ ngói mà chưa chạm rồng
Hai bên lê với lựu trổ bông
Anh có vợ năm trước em có chồng năm sau
Bây giờ hai đứa bằng nhau
Miễn là có phước chớ trước với sau làm gì
60 Anh đừng ham đờn bản năm giây
Nhà em cũng có năm cây đờn cò
Đờn kêu tiếng nhỏ tiếng to
Đờn kêu lưu thủy là hò xừ xang
Đờn kêu cho thấu tai chàng
Chàng ơi bớt ngủ nghe lời em phân
61 Anh về giữ dạ trung trinh
Gửi thư con ngư rước, gửi lời con nhạn đưa
Lời nguyền phơi nắng dầm mưa
Bát nước dư thiếp uống, bát cơm thừa chàng ăn
Em nguyền cùng anh ba bốn con trăng
Anh về giữ dạ đừng có nhíu nhăng nơi nào
62 Anh với em cùng ở một làng
Bởi anh chậm bước nên nàng đi xa
Bây giờ em không trách mẹ hờn cha
Trách rằng căn số sinh ra lỗi giờ
Trách cùng bà Nguyệt ông Tơ
Xui đường cho thiếp, bỏ bơ vơ duyên chàng
63 Anh gặp em đây muốn kết chỉ xe dây
Nhớ lời thề sơn minh hải thệ
Chiếc kim xuyến em còn dành để
Khăn vuông hường anh còn thế lại đây
Chàng thấy đó thì tường tâm sự
Lời giao ước của kia còn giữ
Duyên Châu Trần nghĩa nọ còn ghi
Anh nguyền với em thiên chiếu địa tri
Thôi thì thôi gặp nàng có thuở
Biển dầu cạn lòng Kiều còn nhớ
Non dầu mòn tình Trọng chớ quên
64 Anh về không lẽ em đi theo
Ruột đau từng đoạn bộ lông nheo ướt dầm
Ra đi không phép lẽ em dám cầm
Ra về tới ngõ châu dầm lệ rơi
65 Anh thương em thì đừng có luân con mắt, đừng có bắt cái tay
Người ta đông như hội ngó ngay chứ đừng nhìn
Anh thương em để dạ làm tin
Miếng trầu miếng thuốc giữ gìn anh ăn
Trầu em, em để trong khăn
Thuốc anh, anh hút đừng quăng, đừng dồi
Miệng thế gian quá lắm anh ơi
Chồng em hay đặng, vậy thời em nói sao
66 Anh đi mười một năm Thân
Ở nhà em đợi đã gần ba năm
Dầu mà nơi tử nơi sanh
Thì em cũng đợi nơi anh trở về
Ở nhà không dám ngoa nguê
Áo em năm nút chưa hề hở bâu
69 Anh về sao đặng mà về
Nhân nghĩa lời thề bỏ lại cho ai
Ra về đường liễu dặm mai
Khuyên anh ở lại khéo phai lời nguyền
70 Áo vàng đừng để sứt khuy
Cải lời cha mẹ làm chi tội trời
71 Áo anh cởi mãi không ra
Lời thề năm ấy anh đà bỏ quên
72 Áo thay tay chờ ngày giao bạn
Miệng kêu ới chàng cho xứng trượng phu
Đó bạn hò nhu ta cũng hò nhu
Ai mà hò hoán, hò thù mặc ai
73 Ăn tiêu nhớ tỏi ngậm ngùi
Tay bưng đĩa thịt nhớ mùi nước mắm ngon
Em tưởng anh lòng dạ sắt son
Hay đâu anh có vợ con ở nhà
Anh đến đây cũng muốn kết nghĩa giao hòa
Kết nghĩa cũng đặng sợ con vợ già nó ghen
74 Ăn tiêu nhớ tỏi ngậm ngùi
Ngồi trong đám hẹ nhớ mùi hành hương
Ăn chanh nhớ tới mùi hường
Bưng chén cơm tấm nhớ dĩa muối gừng còn cay
75 Ăn chanh chép miệng chua chua
Anh đưa em đến chợ Chùa xa xa
Mảng lo cha yếu mẹ già
Đặt lưng xuống đất con nhạn đà trở canh
76 Ân tình chưa đặng bao lâu
Tằm sao nở bỏ nghĩa dâu hỡi tằm
1. Ai lên làng Quỷnh hái chè,
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi!
2. Muốn ăn cơm trắng cá mè,
Thì lên làng Quỷnh hái chè với anh.
Muốn ăn cơm trắng cá rô,
Thì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!
3. Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Hàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho
4. Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng
5. Ai về Hà nội ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui
Đường về xứ Lạng mù xa..
Có về Hà nội với ta thì về
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,
6. Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
7. Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa Hương.
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.
8. Ra đi anh nhớ Nghệ An,
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.
9. "Yến sào Vinh Sơn
Cửu khổng cửa Ròn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu quán Hàn...
Rượu dâu Thuận Lý..."
10. Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Đừng thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang
1 KINH MÔN
An Phụ có cái bàn cờ
Trông xuống hạ giới mờ mờ xa xa
Bây giờ kể núi quanh ta
Núi Mông,núi Sấu ,núi Ngà ,núi Châu
Núi Than ,núi Đước một màu
Trông về núi vá củi đâu rậm rừng
Bổn Đản núi Đất , núi Thông
Kìa trông Phương Luật,Cổ Tân,Đông Hà
2 BÌNH GIANG
Em về gánh nước giếng chùa
Vì say cảnh đep nên chưa muốn về
Giếng tròn tròn giữa lang quê
Tình em với giếng chẳng hề phôi phai
Mạch tư lòng đát phun ra
Như dòng sữa mẹ nuôi ta tháng ngày
Truyền răng ở mach giếng này
Có lò Khoa Bảng chỉ đầy không vơi.
Sưu tầm 20 câu ca dao tục ngữ về địa phương Thanh Hà
Em tham khảo ở đây nhé:
Ca dao tục ngữ về Thanh Hà - Ca dao Mẹ
Tham khảo
1.Phú Chiêm ăn cá bỏ đầu
Thanh Hà xách dọc xỏ xâu đem về
2.Tiếng đồn con gái Nam Diêu
Làm giỏi hát giỏi, mĩ miều nước da
Tiếng đồn con trai Thanh Hà
Nói năng lịch thiệp như là văn nho
3.Dẫu em mình ngọc thân ngà
Lấy chồng Thanh Hà phải gánh phân heo
4..Ngã tư nơi hẹn chốn hò
Gặp nhau liếc mắt dặn dò đôi câu
Chàng đưa thuốc, thiếp trao trầu
Thắm tình Cẩm Lệ, mặn vôi Thanh Hà
5.Thanh Hà bước đến Lai Nghi
Thăm bác với chú, thăm dì với cô
Còn người ở tại Cẩm Phô
Sang năm sẽ chỉ đường vô tận nhà
6.
Trai Cẩm Phô chưa xô đã ngã
Gái Thanh Hà chưa gả đã theo
7.Nhất Phước Kiều đám ma
Nhì Thanh Hà nhà cháy
8.Thanh Hà vẫn gạch bát nồi
Thuốc thơm Cẩm Lệ mấy đời lừng danh
9.Đã là con mẹ con cha
Thì sinh ở đất Thanh Hà Xứ Đông
10.ôi sinh trên đất Thanh Hà
Được làm con mẹ con cha một đời
Thanh Hà mảnh đất quê tôi
Địa linh nhân kiệt sáng ngời xứ đông
11.Quê hương tôi đất vải thiều
Thanh Hà hai tiếng thân yêu vô cùng
Dân quê tôi rất anh hùng
Chống Pháp đánh Mỹ lẫy lừng chiến công
12.Thanh Hà có tướng Trung Lan
Đánh tây, ông quyết thi gan một thời.
13.Có ai về Bắc với ta
Xứ Đông mảnh đất bao la tình người
Thanh Hà có ruốc có rươi
Có cô thôn nữ nụ cười dễ thương
14.Tôi sinh trên đất Thanh Hà
Được làm con mẹ con cha một đời
Thanh Hà nhớ lắm quê ơi
Có ai về hãy cho tôi cùng về
Tìm được bằng này à
Mọi người ơi giúp mik nhanh nha, thứ 6 mik phải nộp rồi
Đề bài: Hãy sưu tầm những câu tục ngữ, ca dao được lưu hành ở địa phương em (Bá Hiến - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc )
Những câu ca dao, tục ngữ viết về địa phương (xã, huyện, tỉnh) viết về di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh.(tục ngữ 10 câu, ca dao 10 câu)
cảm ơn mọi người rất nhiều!!!!
Mình cũng vậy. Giúp mình với. Mình ở Hải Dương nha
Google là để làm gì bạn ơi!
Sưu tầm những câu ca dao tục ngữ mang tính địa phương ( nói về Tiền Giang )
t: - Đèn Sài Gòn (Cầu Tàu) ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
- Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Chồng gần không lấy, em lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc bằng gió Gò Công
Nổi một trận giông lạc vợ mất chồng
Đêm nằm nghĩ lại phật phồng lá gan.
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc bằng gió Gò Công
Thổi ngọn đông phong lạc vợ xa chồng,
Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
- Gò Công anh dũng tuyệt vời
Ông Trương “đám lá tối trời” đánh Tây.
- Phất cờ chống nạn xâm lăng
Trương Công nghĩa khí lẫy lừng trời nam.
( Ca ngợi Trương Công Định, quê Gò Công )
1.Bánh giá chợ Giồng Mắm còng Phú Thạnh
2. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh dìa học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ
- Đèn Sài Gòn (Cầu Tàu) ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
- Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Chồng gần không lấy, em lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc bằng gió Gò Công
Nổi một trận giông lạc vợ mất chồng
Đêm nằm nghĩ lại phật phồng lá gan.
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc bằng gió Gò Công
Thổi ngọn đông phong lạc vợ xa chồng,
Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
- Gò Công anh dũng tuyệt vời
Ông Trương “đám lá tối trời” đánh Tây.
- Phất cờ chống nạn xâm lăng
Trương Công nghĩa khí lẫy lừng trời nam.
( Ca ngợi Trương Công Định, quê Gò Công )
DÂN CA :
- Hò ơ Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng
Ai về Mỹ Thuận Tiền Giang
Có thương nhớ gã... (ờ)
Hò ơ... Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa.
- Hò...ơi...má ơi đừng gả con xa
Chim kêu mà vượn hú hò...ơi…
Chim kêu mà vượn hú biết nhà má đâu
Từ ngày xa đất Tiền Giang
Em theo anh về xứ Cảnh Đờn
Muỗi kêu mà như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh
Em yêu anh nên đành xa xứ,
Xuôi ghe chèo miệt thứ Cà Mau
Gió lao xao thổi vào mái lá, như ru tình cô gái Tiền Giang ,
Yêu quê hương thương miền cổ cựu,
Vấn vương tình đất tổ quê cha
Đêm đêm ra đứng hàng ba
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn
À ơi... Ới ơi... bông bần rụng trắng ngoài sông
Lấy chồng xa xứ khó mong ngày về,
Xa xưa con ở vựa kề
Bên ba mà bên má vỗ về ca dao,
Má ơi đừng gả con xa, chim kêu mà vượn hú biết nhà má đâu,
Sương khuya ướt đọng giàn bầu,
Em về miệt thứ bỏ sầu cho ai.
- Hát đối Gò Công
Ơ cây mà đa làm sao, ớ kìa
Làm vầy, bạn vàng ơi ?
Cây đa Bình Đông, cây đa Bình Tây, cây đa xóm Củi, cây đa chợ Đuổi
Năm bảy cây đa tàn !
Trát quan trên gửi giấy xuống làng
Cấm điếm, cấm đàng, cấm tùng tam tu ngũ
Cấm đủ phu thê, cấm không cho trai dự gái kề
Để cho người cũ, ờ để cho người cũ trở về với duyên xưa, đó bớ mà em.
( Những cây đa tàn trong bài hátmà người trai nàyđã gợi lên để hỏi người yêu, phải chăng là những cây đa tượng trưng cho những con người anh hùng có công giết giặc, cứu nước, cứu dân như Trương Định ... đã hi sinh trong những cuộc chiến đấu anh dũng chống quân thù trên đất Gò Công ).
- Hò đối
( Mĩ Tho - Nam Bộ )
Con cá đối nằm trên cối đá
Con chim la đà đậu nhánh lá đa
Chồng gần sao em không lấy mà đi lấy chồng xa
Mai sau mẹ yếu cha già
Bát cơm trách cá, cái chén trà ai dưng ... ?
em hãy sưu tầm các câu ca dao tục ngữ nói về các lễ hội ở địa phương
tham khảo
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.
- Nhất cao là núi Ba Vì
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
- Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân.
- Bánh tráng Mỹ Lồng,
Bánh phồng Sơn Đốc,
Măng cụt Hàm Luông.
- Bến Tre biển cá sông tôm
Ba Tri Muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng.
Tham Khảo
1 KINH MÔN
An Phụ có cái bàn cờ
Trông xuống hạ giới mờ mờ xa xa
Bây giờ kể núi quanh ta
Núi Mông,núi Sấu ,núi Ngà ,núi Châu
Núi Than ,núi Đước một màu
Trông về núi vá củi đâu rậm rừng
Bổn Đản núi Đất , núi Thông
Kìa trông Phương Luật,Cổ Tân,Đông Hà
2 BÌNH GIANG
Em về gánh nước giếng chùa
Vì say cảnh đep nên chưa muốn về
Giếng tròn tròn giữa lang quê
Tình em với giếng chẳng hề phôi phai
Mạch tư lòng đát phun ra
Như dòng sữa mẹ nuôi ta tháng ngày
Truyền răng ở mach giếng này
Có lò Khoa Bảng chỉ đầy không vơi.
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.
- Nhất cao là núi Ba Vì
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
- Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân.
- Bánh tráng Mỹ Lồng,
Bánh phồng Sơn Đốc,
Măng cụt Hàm Luông.
- Bến Tre biển cá sông tôm
Ba Tri Muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng.
tick cho mk nhé
Em sưu tầm 20 câu ca dao , tục ngữ về địa phương Quảng Ngãi , phải nêu nội dung , ý nghĩa câu ..
Em hãy sưu tầm tục ngữ, ca dao, dân ca địa phương Ninh Bình?
Ở đâu anh mới tới đây
Cớ sao anh biết đồng này đồng kia?
– Quê anh vốn ở Trường Yên
Anh đang dạy học ở bên xã nhà
Phận anh chưa có đàn bà
Cho nên mới hỏi cửa nhà sâu nông.
Ai là con cháu Rồng Tiên
Tháng hai nhớ hội Trường Yên mà về
Về thăm đất cũ Đinh, Lê
Non xanh nước biếc bốn bề như xưa
Một mặt người bằng mười mặt ruộng.
Chớp núi Bùng thì chớ, chớp núi Lớ thì mưa.
Con gái La Mai, bánh gai Cam Giá.
Trai Trung Trữ, nữ Trường Yên.
Muỗi cữa Càn , gan xứ biển.
Vượt Đai Nha, qua Thần phù.
Nhất Phùng, nhì vệ, thứ ba Nhuệ Đồng.