Đọc thông tin kết hợp quan sát hình dưới đây và giới thiệu với bạn về Vương quốc Cam-pu-chia
Đọc thông tin kết hợp quan sát hình ở trang 106 (sách vnen) và giới thiệu về vương quốc Cam-pu-chia
Cam-pu-chia là một trong những nước có lịch sử lâu đời và phát triển nhất ở Đông Nam Á thời cổ - trung đại.
Thời tiền sử, trên đất Cam-pu-chia ngày nay đã có một bộ phận cư dân cổ Đông Nam Á sinh sống. Tiếp đó, trong quá trình xuất hiện nhà nước, tộc người Khơ-me được hình thành. Người Khơ-me giỏi săn bắn, quen đào ao, đắp hồ trữ nước. Họ đã tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ, biết khắc bia bằng chữ Phạn. Đến thế kỉ VI, vương quốc của người Khơ-me hình thành, được gọi là Chân Lạp.
Thời kì phát triển của Vương quốc Cam-pu-chia kéo dài từ thế kỉ IX đến thế kỉ XV, còn gọi là thời kì Ăng-co.
Sau thời kì Ăng-co, Cam-pu-chia bước vào giai đoạn suy yếu kéo dài tới khi thực dân Pháp xâm lược vào năm 1863.
Đọc thông tin kết hợp quan sát hình ở trang 106 (sách vnen) và giới thiệu về vương quốc Cam-pu-chia
Cứu các nhân tài oj
Lan Xang (có khi viết là Lan Ch'ang, Lanexang, tiếng Pali: Sisattanakhanahut, tiếng Lào: ລ້ານຊ້າງ - lâansâang,tiếng Trung: 南掌 - Nam Chưởng hay 萬象 - Vạn Tượng), nghĩa là "đất nước triệu voi" (Lan: triệu, Xang: voi), là quốc gia đầu tiên của người Lào, được vua Phà Ngừm khai sáng năm 1354.
Đọc thông tin kết hợp quan sát hình ảnh và kể với bạn về vương quốc Lang Xang.
Chủ nhân đầu tiên của vương quóc Lang Xang là người Lào Thơng. Đến thế kỉ XIII, một nhóm người Thái di cư xuống, gọi là người Lào Lùm.
Năm 1353, Pha Ngừm thống nhất các bộ lạc lập nước riêng gọi là Lang Xang.
Thế kỉ XV-XVII, nước Lang Xang suy yếu nị Vương quốc Xiêm, sau đó là thực dân Pháp xâm lược, biến Lào thành thuộc địa(của thế kỉ XIX)
Phà Ngừm là dòng dõi của thủ lĩnh (chao muang) xứ muang Sua (Luangprabang ngày nay). Lúc nhỏ, cha con ông bị bắt vào Angkorlàm con tin của triều đình Khmer. Ở Angkor, Phà Ngừm quy y theo đạo Phật rồi được gả công nương trong hoàng tộc Khmer. Năm 1351 khi miền Bắc có loạn, triều đình Khmer lúc ấy đã suy yếu, sai Phà Ngừm cầm quân lên cao nguyên Khorat đánh dẹp. Phà Ngừm giỏi việc binh nên bình định được các chao muang địa phương năm 1354, thống nhất xứ Lào, xưng quốc hiệu là Lan Xang. Kinh đô đặt ở Xieng Dong Xieng Thong ở xứ Muang Sua cũ. Biên cương nước Lan Xang rộng lớn nhất nhì Đông Nam Á lúc bấy giờ, bao gồm Cao nguyên Khorat cùng lưu vực sông Mê Kông, bắc giáp Trung Hoa, nam đến Sambor của đế quốc Angkor, đông giáp Đại Việt, tây là rặng Dong Phaya Yen.
Năm 1373, dân Lan Xang không phục nên Phà Ngừm phải bỏ ngai vàng, lưu vong sang xứ muang Nan (nay thuộc tỉnh Nan, Thái Lan) rồi mất ở đó. Con Phà Ngừm là Samsenethailên kế vị, người có công chỉnh đốn triều chính thêm quy củ, lấy Mandala và Phật giáoThượng tọa bộ làm gốc. Trong nước thì Samsenethai thu phục được các thủ lĩnh địa phương. Đối ngoại thì Lan Xang giao hiếu với Quốc vương nước Ayutthaya của người Thái, ngày càng hùng mạnh. Samsenethai cũng tìm cách liên minh với các xứ lân bang, cưới công chúa xứ Lan Na ở phía đông bắc rồi lại cầu hôn, rước một công chúa Ayutthaya về Lan Xang.
Kế vị Samsenethai là Lan Kham Deng, trị vì không lâu thì mất. Lan Xang bước vào thời kỳ nhiễu loạn.
Loạn lạc, chiến tranh và trùng hưng[sửa | sửa mã nguồn]Con cả của Lan Kham Deng là Phommathatlên kế vị nhưng chỉ ở ngôi được 10 tháng thì bị sát hại. Quyền lực bấy giờ do Nang Keo Phimpha, em gái Samsenethai nắm cả. Phimpha lập con mình là Khamtum lên làm vua nhưng Khamtum cũng chỉ ở ngôi được 5 tháng thì bị ép nhường ngôi cho Meunsai - con trai thứ của Samsenethai. Meunsai ở ngôi được 6 tháng lại bị Nang Keo Phimpha giết đi rồi đưa Fa Khai lên kế vị. Fa Khai cũng chỉ ở ngôi được khoảng 3 năm.
Thời kỳ truất phế do các phe phái trong triều tranh giành nhau kéo dài 20 năm đến năm 1442 thì Xaiyna Chakhaphat lên ngôi vua, tái lập trật tự. Xaiyna Chakhaphat khôn khéo sắp xếp cho sáu người con làm trấn thủ ở những nơi trọng yếu, rồi lại đề cao Phật giáo, xây dựng chùa chiền lấy đó làm nền tảng cai trị. Trong khi đó bang giao với Đại Việt gặp khó khăn vì tranh chấp ở xứ Bồn Man, dãn đến chiến tranh Đại Việt - Lan Xang (1467-1480). Quân Đại Việt vượt biên giới, đánh sâu vào Lan Xang; kinh đô thất thủ. Sử sách Lào ghi là may có hoàng tử Suvanna Banlang đang trấn thủ xứ muang Nan, hiệp với quân nước Lan Na, đẩy lui được quân Đại Việt, tái chiếm kinh đô. Suvanna Banlang lên trị vì không lâu thì mất.
Kế vị là La Saen Thai (em của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1486–96), rồi đến Somphu(con của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1496–1501), và Vixun (em của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1501–1520). Dưới áp lực của Đại Việt, vua Lan Xang cố dựa vào Vương quốc Ayutthaya của người Thái. Từ đó Lan xang càng chịu ảnh hưởng của Ayutthaya từ mọi mặt: chính trị, văn hóa và thương mại.
Thời kỳ vàng son[sửa | sửa mã nguồn]Lan Xang dưới các triều vua Vixun (1501–20), Phothisarat (1520–47) và Setthathirath(1548–71) hưởng thời kỳ vàng son, thịnh trị. Ba vị vua này giữ nguyên phép cai trị cũ trong khi nâng cao Phật giáo của các tiền triều. Pho tượng Phật Phra Bang vốn được coi là quốc bảo được triều đình rước từ Viêng Chăn về Xieng Dong Xieng Thong và từ đó kinh đô Lan Xang mang danh hiệu "Luangprabang" (nơi đặt Phra Bang).
Với pho tượng Phật Phra Bang, Lan Xang tự đặt mình vào trung tâm Mandala, chiêu dụ được các xứ phên giậu về tòng phục. Triều vua Phothisarat cũng thành công củng cố phép cai trị, kiểm soát từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, quan hệ kiểm soát này chủ yếu vẫn dựa trên quan hệ cá nhân giữa vua tôi chứ không theo hàng ngũ hành chánh nào cả. Triều đình Lan Xang giữ ngôi bằng cách liên minh cưới gả với các lãnh chúa trong khi nguy cơ phản loạn và ly khai vẫn tiếp tục như trường hợp Bồn Man dấy binh chống lại Lan Xang năm 1532.
Khi vua nước Lan Na mất, trong triều chia bè phái tranh nhau; Ayutthaya lấy cớ đó phái binh lên đánh Lan Na. Lan Xang phải gửi binh tiếp viện đẩy lui quân Ayutthaya vào năm 1536. Triều đình Lan Na lập con của Phothisarat là Sethathirat lên làm vua, biến Lan Na thành chư hầu của Lan Xang.
Năm 1563, Vương quốc Taungoo của người Miến hùng mạnh, uy hiếp cả khu vực. Vua Lan Xang là Setthathirath phải thiên đô về Viêng Chăn, cùng rước tượng Phật Ngọc (Phra Keo) từ Lan Na về Viêng Chăn. Nước Lan Xang từ đó có hai pho tượng quý: Phật Phra Bang ở Luangprabang và Phật Phra Keo ở Viêng Chăn.
Trong khi đó Taungoo mở cuộc xâm lăng về phía đông. Lan Xang và Ayutthaya cùng là tộc người Thái nên tìm cách liên minh nhưng quân Miến quá mạnh. Ayutthaya thất thủ năm 1568 rồi bị quân Miến đốt phá tan hoang. Taungoo sau đó chuyển quân lên đánh Viêng Chăn. Setthathirath cầm quân đẩy lui được quân Miến nhưng rồi qua đời một cách bí ẩn khi đi tuần du ở Hạ Lào.
Suy vong[sửa | sửa mã nguồn]Sau cái chết của vua Setthathirath năm 1571, Lan Xang một lần nữa rơi vào cảnh tranh giành ngôi báu. Taungoo đã nhân cơ hội này can thiệp vào Lan Xang, chính thức đưa Lan Xang thành chư hầu của mình suốt 30 năm. Chuyện tranh giành ngôi báu vẫn tiếp tục. Mãi đến năm 1638, khi vua Surinyavongsa lên cai trị, khủng hoảng chính trị mới chấm dứt. Nhưng đến khi vị vua này qua đời vào năm 1695, Lan Xang lại tiếp tục rơi vào khủng hoảng bởi tranh giành nội bộ, và kết quả là nó đã chính thức chấm dứt khi bị phân chia thành ba vương quốc nhỏ là Vương quốc Luang Phrabang ở phía bắc, Vương quốc Viêng Chăn ở trung tâm và Vương quốc Champasak ở phía nam vào năm 1707.
Các vua Lanxang (1353 - 1975):
Fa Ngum (1353 - 1375) Vutha Singsavaddy (1375 - 1378) Samsenethai (1378 - 1416) Lan Kham Deng (1417 - 1428) Phommathat (1428 - 1429 Khamtum (Thao Khamtum) (1429) Meun Sai (1429 - 1430) Fa Khai (1430 - 1433) Khong Kham (1433 - 1434) Yukhon (1434 - 1435) Kham Keut (1435 - 1441) Chaiyachakkapat-Phaenphaeo (Sao Tiakaphat) (1441 - 1478) Suvarna Banlang (Theng Kham) (1479 - 1485) Lahsaenthai Puvanart (1485 - 1495) Sompou (Samphou) (1495 - 1500) Vixun (1501 - 1520) Photisarath I (1520 - 1547) Xaysethathirath (1548 - 1571) Saensurin (1572 - 1574) (1580 - 1582) Mahaupahat (phụ thuộc vào Miến Điện) (1575 - 1580) Nakhon Noi (phụ thuộc vào Miên Điện) (1582 - 1583) Nokeo Koumone (1591 - 1596) Thammikarath (1596 - 1622) Upanyuvarat (1622 - 1623) Photisarath II (1623 - 1627) Mon Keo (Mongkeo) (1627) Tone Kham (1627 - 1633) Vichai (1633 - 1637) Surinyavongsa (1637 - 1694)+ Vương quốc Champasak (1700-1946):
Nan Rath/soysysamoun (1700 - 1713?) Nokasat (1713 - 1738) Saya Kumane (1738 - 1791) Xiang Keo (1791) Fay Na (1791 - 1811) No Muong (1811) Cha Nou (1811 - 1813) Ma Noi (1813 - 1819) Rajabud Yo (1821 - 1827) Hui (1827 - 1840) Nak (1840 - 1851) Boua (1851 – 1852) (là nhiếp chính trên danh nghĩa) Kham Nai (1856 - 1858) Chu (1858 - 1860) (là nhiếp chính trên danh nghĩa) Kham Suk (1863 - 28 tháng 7 năm 1900) Ratsadanay (28 tháng 7 năm 1900 - 22 tháng 11 năm 1904)Hoàng thân
Ratsadanay (22 tháng 11 năm 1904 – tháng 6 năm 1946) Boun Oum (tháng 6 năm 1946 - 27 tháng 8 năm 1946)+ Vương quốc Viêng Chăn (1707-1828):
Setthathirath II (1707 - 1730) Ong Long (1730 - 1767) Ong Bun (1767 - 1778) (lần thứ nhất) Phraya Supho (1778 - 1780) (toàn quyền người Thái) Ong Bun (1780 – tháng 11 năm 1781) (lần thứ hai) Nanthasen (21 tháng 11 năm 1781 – tháng 1 năm 1795) Intharavong Setthathirath III (2 tháng 2 năm 1795 - 7 tháng 2 năm 1805) Anouvong (7 tháng 2 năm 1805 - 12 tháng 11 năm 1828)+ Vương quốc Luang Phrabang (1707-1946):
Kitsarat (1707 - 1713) Ong Kham (1713 - 1723) Thao Ang (Inthason) (1723 - 1749) Intharavongsa (1749) Inthaphom (1749) Sotika-Kuomane (1749 - 1768) Surinyavong II (1768 - 1788) Anurutha (3 tháng 2 năm 1792 - 179..) (lần thứ nhất) Anurutha (2 tháng 6 năm 1794 - 31 tháng 12 năm 1819) (lần thứ hai) Manthaturath (31 tháng 12 năm 1819 - 7 tháng 3 năm 1837) Unkeo (1837 - 1838) (nhiếp chính trên danh nghĩa) Sukha-Söm (1838 - 23 tháng 12 năm 1850) Chantha-Kuman (23 tháng 9 năm 1850 - 1 tháng 10 năm 1868) Oun Kham (1 tháng 10 năm 1868 - 15 tháng 12 năm 1895) Zakarine (15 tháng 12 năm 1895 - 25 tháng 3 năm 1904) Sisavang Vong (26 tháng 3 năm 1904 - 27 tháng 8 năm 1946)Sisavang Vong trở thành Quốc vương của Vương quốc Lào từ ngày 12 tháng 10 năm 1945.
+ Vương quốc Lào (1946-1975):
Quốc vương Sisavang Vong (15 tháng 9 năm 1945 - 20 tháng 10 năm 1945) Hoàng thân Phetsarath Rattanavongsa (20 tháng 10 năm 1945 - 23 tháng 4 năm 1946) Quốc vương Sisavang Vong (23 tháng 4 năm 1946 - 29 tháng 10 năm 1959) Savang Vatthana (30 tháng 10 năm 1959 - 2 tháng 12 năm 1975)Phà Ngừm là dòng dõi của thủ lĩnh (chao muang) xứ muang Sua (Luangprabang ngày nay). Lúc nhỏ, cha con ông bị bắt vào Angkorlàm con tin của triều đình Khmer. Ở Angkor, Phà Ngừm quy y theo đạo Phật rồi được gả công nương trong hoàng tộc Khmer. Năm 1351 khi miền Bắc có loạn, triều đình Khmer lúc ấy đã suy yếu, sai Phà Ngừm cầm quân lên cao nguyên Khorat đánh dẹp. Phà Ngừm giỏi việc binh nên bình định được các chao muang địa phương năm 1354, thống nhất xứ Lào, xưng quốc hiệu là Lan Xang. Kinh đô đặt ở Xieng Dong Xieng Thong ở xứ Muang Sua cũ. Biên cương nước Lan Xang rộng lớn nhất nhì Đông Nam Á lúc bấy giờ, bao gồm Cao nguyên Khorat cùng lưu vực sông Mê Kông, bắc giáp Trung Hoa, nam đến Sambor của đế quốc Angkor, đông giáp Đại Việt, tây là rặng Dong Phaya Yen.
Năm 1373, dân Lan Xang không phục nên Phà Ngừm phải bỏ ngai vàng, lưu vong sang xứ muang Nan (nay thuộc tỉnh Nan, Thái Lan) rồi mất ở đó. Con Phà Ngừm là Samsenethailên kế vị, người có công chỉnh đốn triều chính thêm quy củ, lấy Mandala và Phật giáoThượng tọa bộ làm gốc. Trong nước thì Samsenethai thu phục được các thủ lĩnh địa phương. Đối ngoại thì Lan Xang giao hiếu với Quốc vương nước Ayutthaya của người Thái, ngày càng hùng mạnh. Samsenethai cũng tìm cách liên minh với các xứ lân bang, cưới công chúa xứ Lan Na ở phía đông bắc rồi lại cầu hôn, rước một công chúa Ayutthaya về Lan Xang.
Kế vị Samsenethai là Lan Kham Deng, trị vì không lâu thì mất. Lan Xang bước vào thời kỳ nhiễu loạn.
Loạn lạc, chiến tranh và trùng hưng[sửa | sửa mã nguồn]Con cả của Lan Kham Deng là Phommathatlên kế vị nhưng chỉ ở ngôi được 10 tháng thì bị sát hại. Quyền lực bấy giờ do Nang Keo Phimpha, em gái Samsenethai nắm cả. Phimpha lập con mình là Khamtum lên làm vua nhưng Khamtum cũng chỉ ở ngôi được 5 tháng thì bị ép nhường ngôi cho Meunsai - con trai thứ của Samsenethai. Meunsai ở ngôi được 6 tháng lại bị Nang Keo Phimpha giết đi rồi đưa Fa Khai lên kế vị. Fa Khai cũng chỉ ở ngôi được khoảng 3 năm.
Thời kỳ truất phế do các phe phái trong triều tranh giành nhau kéo dài 20 năm đến năm 1442 thì Xaiyna Chakhaphat lên ngôi vua, tái lập trật tự. Xaiyna Chakhaphat khôn khéo sắp xếp cho sáu người con làm trấn thủ ở những nơi trọng yếu, rồi lại đề cao Phật giáo, xây dựng chùa chiền lấy đó làm nền tảng cai trị. Trong khi đó bang giao với Đại Việt gặp khó khăn vì tranh chấp ở xứ Bồn Man, dãn đến chiến tranh Đại Việt - Lan Xang (1467-1480). Quân Đại Việt vượt biên giới, đánh sâu vào Lan Xang; kinh đô thất thủ. Sử sách Lào ghi là may có hoàng tử Suvanna Banlang đang trấn thủ xứ muang Nan, hiệp với quân nước Lan Na, đẩy lui được quân Đại Việt, tái chiếm kinh đô. Suvanna Banlang lên trị vì không lâu thì mất.
Kế vị là La Saen Thai (em của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1486–96), rồi đến Somphu(con của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1496–1501), và Vixun (em của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1501–1520). Dưới áp lực của Đại Việt, vua Lan Xang cố dựa vào Vương quốc Ayutthaya của người Thái. Từ đó Lan xang càng chịu ảnh hưởng của Ayutthaya từ mọi mặt: chính trị, văn hóa và thương mại.
Thời kỳ vàng son[sửa | sửa mã nguồn]Lan Xang dưới các triều vua Vixun (1501–20), Phothisarat (1520–47) và Setthathirath(1548–71) hưởng thời kỳ vàng son, thịnh trị. Ba vị vua này giữ nguyên phép cai trị cũ trong khi nâng cao Phật giáo của các tiền triều. Pho tượng Phật Phra Bang vốn được coi là quốc bảo được triều đình rước từ Viêng Chăn về Xieng Dong Xieng Thong và từ đó kinh đô Lan Xang mang danh hiệu "Luangprabang" (nơi đặt Phra Bang).
Với pho tượng Phật Phra Bang, Lan Xang tự đặt mình vào trung tâm Mandala, chiêu dụ được các xứ phên giậu về tòng phục. Triều vua Phothisarat cũng thành công củng cố phép cai trị, kiểm soát từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, quan hệ kiểm soát này chủ yếu vẫn dựa trên quan hệ cá nhân giữa vua tôi chứ không theo hàng ngũ hành chánh nào cả. Triều đình Lan Xang giữ ngôi bằng cách liên minh cưới gả với các lãnh chúa trong khi nguy cơ phản loạn và ly khai vẫn tiếp tục như trường hợp Bồn Man dấy binh chống lại Lan Xang năm 1532.
Khi vua nước Lan Na mất, trong triều chia bè phái tranh nhau; Ayutthaya lấy cớ đó phái binh lên đánh Lan Na. Lan Xang phải gửi binh tiếp viện đẩy lui quân Ayutthaya vào năm 1536. Triều đình Lan Na lập con của Phothisarat là Sethathirat lên làm vua, biến Lan Na thành chư hầu của Lan Xang.
Năm 1563, Vương quốc Taungoo của người Miến hùng mạnh, uy hiếp cả khu vực. Vua Lan Xang là Setthathirath phải thiên đô về Viêng Chăn, cùng rước tượng Phật Ngọc (Phra Keo) từ Lan Na về Viêng Chăn. Nước Lan Xang từ đó có hai pho tượng quý: Phật Phra Bang ở Luangprabang và Phật Phra Keo ở Viêng Chăn.
Trong khi đó Taungoo mở cuộc xâm lăng về phía đông. Lan Xang và Ayutthaya cùng là tộc người Thái nên tìm cách liên minh nhưng quân Miến quá mạnh. Ayutthaya thất thủ năm 1568 rồi bị quân Miến đốt phá tan hoang. Taungoo sau đó chuyển quân lên đánh Viêng Chăn. Setthathirath cầm quân đẩy lui được quân Miến nhưng rồi qua đời một cách bí ẩn khi đi tuần du ở Hạ Lào.
Suy vong[sửa | sửa mã nguồn]Sau cái chết của vua Setthathirath năm 1571, Lan Xang một lần nữa rơi vào cảnh tranh giành ngôi báu. Taungoo đã nhân cơ hội này can thiệp vào Lan Xang, chính thức đưa Lan Xang thành chư hầu của mình suốt 30 năm. Chuyện tranh giành ngôi báu vẫn tiếp tục. Mãi đến năm 1638, khi vua Surinyavongsa lên cai trị, khủng hoảng chính trị mới chấm dứt. Nhưng đến khi vị vua này qua đời vào năm 1695, Lan Xang lại tiếp tục rơi vào khủng hoảng bởi tranh giành nội bộ, và kết quả là nó đã chính thức chấm dứt khi bị phân chia thành ba vương quốc nhỏ là Vương quốc Luang Phrabang ở phía bắc, Vương quốc Viêng Chăn ở trung tâm và Vương quốc Champasak ở phía nam vào năm 1707.
Các vua Lanxang (1353 - 1975):
Fa Ngum (1353 - 1375) Vutha Singsavaddy (1375 - 1378) Samsenethai (1378 - 1416) Lan Kham Deng (1417 - 1428) Phommathat (1428 - 1429 Khamtum (Thao Khamtum) (1429) Meun Sai (1429 - 1430) Fa Khai (1430 - 1433) Khong Kham (1433 - 1434) Yukhon (1434 - 1435) Kham Keut (1435 - 1441) Chaiyachakkapat-Phaenphaeo (Sao Tiakaphat) (1441 - 1478) Suvarna Banlang (Theng Kham) (1479 - 1485) Lahsaenthai Puvanart (1485 - 1495) Sompou (Samphou) (1495 - 1500) Vixun (1501 - 1520) Photisarath I (1520 - 1547) Xaysethathirath (1548 - 1571) Saensurin (1572 - 1574) (1580 - 1582) Mahaupahat (phụ thuộc vào Miến Điện) (1575 - 1580) Nakhon Noi (phụ thuộc vào Miên Điện) (1582 - 1583) Nokeo Koumone (1591 - 1596) Thammikarath (1596 - 1622) Upanyuvarat (1622 - 1623) Photisarath II (1623 - 1627) Mon Keo (Mongkeo) (1627) Tone Kham (1627 - 1633) Vichai (1633 - 1637) Surinyavongsa (1637 - 1694)+ Vương quốc Champasak (1700-1946):
Nan Rath/soysysamoun (1700 - 1713?) Nokasat (1713 - 1738) Saya Kumane (1738 - 1791) Xiang Keo (1791) Fay Na (1791 - 1811) No Muong (1811) Cha Nou (1811 - 1813) Ma Noi (1813 - 1819) Rajabud Yo (1821 - 1827) Hui (1827 - 1840) Nak (1840 - 1851) Boua (1851 – 1852) (là nhiếp chính trên danh nghĩa) Kham Nai (1856 - 1858) Chu (1858 - 1860) (là nhiếp chính trên danh nghĩa) Kham Suk (1863 - 28 tháng 7 năm 1900) Ratsadanay (28 tháng 7 năm 1900 - 22 tháng 11 năm 1904)Hoàng thân
Ratsadanay (22 tháng 11 năm 1904 – tháng 6 năm 1946) Boun Oum (tháng 6 năm 1946 - 27 tháng 8 năm 1946)+ Vương quốc Viêng Chăn (1707-1828):
Setthathirath II (1707 - 1730) Ong Long (1730 - 1767) Ong Bun (1767 - 1778) (lần thứ nhất) Phraya Supho (1778 - 1780) (toàn quyền người Thái) Ong Bun (1780 – tháng 11 năm 1781) (lần thứ hai) Nanthasen (21 tháng 11 năm 1781 – tháng 1 năm 1795) Intharavong Setthathirath III (2 tháng 2 năm 1795 - 7 tháng 2 năm 1805) Anouvong (7 tháng 2 năm 1805 - 12 tháng 11 năm 1828)+ Vương quốc Luang Phrabang (1707-1946):
Kitsarat (1707 - 1713) Ong Kham (1713 - 1723) Thao Ang (Inthason) (1723 - 1749) Intharavongsa (1749) Inthaphom (1749) Sotika-Kuomane (1749 - 1768) Surinyavong II (1768 - 1788) Anurutha (3 tháng 2 năm 1792 - 179..) (lần thứ nhất) Anurutha (2 tháng 6 năm 1794 - 31 tháng 12 năm 1819) (lần thứ hai) Manthaturath (31 tháng 12 năm 1819 - 7 tháng 3 năm 1837) Unkeo (1837 - 1838) (nhiếp chính trên danh nghĩa) Sukha-Söm (1838 - 23 tháng 12 năm 1850) Chantha-Kuman (23 tháng 9 năm 1850 - 1 tháng 10 năm 1868) Oun Kham (1 tháng 10 năm 1868 - 15 tháng 12 năm 1895) Zakarine (15 tháng 12 năm 1895 - 25 tháng 3 năm 1904) Sisavang Vong (26 tháng 3 năm 1904 - 27 tháng 8 năm 1946)Sisavang Vong trở thành Quốc vương của Vương quốc Lào từ ngày 12 tháng 10 năm 1945.
+ Vương quốc Lào (1946-1975):
Quốc vương Sisavang Vong (15 tháng 9 năm 1945 - 20 tháng 10 năm 1945) Hoàng thân Phetsarath Rattanavongsa (20 tháng 10 năm 1945 - 23 tháng 4 năm 1946) Quốc vương Sisavang Vong (23 tháng 4 năm 1946 - 29 tháng 10 năm 1959) Savang Vatthana (30 tháng 10 năm 1959 - 2 tháng 12 năm 1975)Phà Ngừm là dòng dõi của thủ lĩnh (chao muang) xứ muang Sua (Luangprabang ngày nay). Lúc nhỏ, cha con ông bị bắt vào Angkorlàm con tin của triều đình Khmer. Ở Angkor, Phà Ngừm quy y theo đạo Phật rồi được gả công nương trong hoàng tộc Khmer. Năm 1351 khi miền Bắc có loạn, triều đình Khmer lúc ấy đã suy yếu, sai Phà Ngừm cầm quân lên cao nguyên Khorat đánh dẹp. Phà Ngừm giỏi việc binh nên bình định được các chao muang địa phương năm 1354, thống nhất xứ Lào, xưng quốc hiệu là Lan Xang. Kinh đô đặt ở Xieng Dong Xieng Thong ở xứ Muang Sua cũ. Biên cương nước Lan Xang rộng lớn nhất nhì Đông Nam Á lúc bấy giờ, bao gồm Cao nguyên Khorat cùng lưu vực sông Mê Kông, bắc giáp Trung Hoa, nam đến Sambor của đế quốc Angkor, đông giáp Đại Việt, tây là rặng Dong Phaya Yen.Năm 1373, dân Lan Xang không phục nên Phà Ngừm phải bỏ ngai vàng, lưu vong sang xứ muang Nan (nay thuộc tỉnh Nan, Thái Lan) rồi mất ở đó. Con Phà Ngừm là Samsenethailên kế vị, người có công chỉnh đốn triều chính thêm quy củ, lấy Mandala và Phật giáoThượng tọa bộ làm gốc. Trong nước thì Samsenethai thu phục được các thủ lĩnh địa phương. Đối ngoại thì Lan Xang giao hiếu với Quốc vương nước Ayutthaya của người Thái, ngày càng hùng mạnh. Samsenethai cũng tìm cách liên minh với các xứ lân bang, cưới công chúa xứ Lan Na ở phía đông bắc rồi lại cầu hôn, rước một công chúa Ayutthaya về Lan Xang.
Kế vị Samsenethai là Lan Kham Deng, trị vì không lâu thì mất. Lan Xang bước vào thời kỳ nhiễu loạn.
Loạn lạc, chiến tranh và trùng hưng[sửa | sửa mã nguồn]Con cả của Lan Kham Deng là Phommathatlên kế vị nhưng chỉ ở ngôi được 10 tháng thì bị sát hại. Quyền lực bấy giờ do Nang Keo Phimpha, em gái Samsenethai nắm cả. Phimpha lập con mình là Khamtum lên làm vua nhưng Khamtum cũng chỉ ở ngôi được 5 tháng thì bị ép nhường ngôi cho Meunsai - con trai thứ của Samsenethai. Meunsai ở ngôi được 6 tháng lại bị Nang Keo Phimpha giết đi rồi đưa Fa Khai lên kế vị. Fa Khai cũng chỉ ở ngôi được khoảng 3 năm.
Thời kỳ truất phế do các phe phái trong triều tranh giành nhau kéo dài 20 năm đến năm 1442 thì Xaiyna Chakhaphat lên ngôi vua, tái lập trật tự. Xaiyna Chakhaphat khôn khéo sắp xếp cho sáu người con làm trấn thủ ở những nơi trọng yếu, rồi lại đề cao Phật giáo, xây dựng chùa chiền lấy đó làm nền tảng cai trị. Trong khi đó bang giao với Đại Việt gặp khó khăn vì tranh chấp ở xứ Bồn Man, dãn đến chiến tranh Đại Việt - Lan Xang (1467-1480). Quân Đại Việt vượt biên giới, đánh sâu vào Lan Xang; kinh đô thất thủ. Sử sách Lào ghi là may có hoàng tử Suvanna Banlang đang trấn thủ xứ muang Nan, hiệp với quân nước Lan Na, đẩy lui được quân Đại Việt, tái chiếm kinh đô. Suvanna Banlang lên trị vì không lâu thì mất.
Kế vị là La Saen Thai (em của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1486–96), rồi đến Somphu(con của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1496–1501), và Vixun (em của Suvanna Banlang, ở ngôi: 1501–1520). Dưới áp lực của Đại Việt, vua Lan Xang cố dựa vào Vương quốc Ayutthaya của người Thái. Từ đó Lan xang càng chịu ảnh hưởng của Ayutthaya từ mọi mặt: chính trị, văn hóa và thương mại.
Thời kỳ vàng son[sửa | sửa mã nguồn]Lan Xang dưới các triều vua Vixun (1501–20), Phothisarat (1520–47) và Setthathirath(1548–71) hưởng thời kỳ vàng son, thịnh trị. Ba vị vua này giữ nguyên phép cai trị cũ trong khi nâng cao Phật giáo của các tiền triều. Pho tượng Phật Phra Bang vốn được coi là quốc bảo được triều đình rước từ Viêng Chăn về Xieng Dong Xieng Thong và từ đó kinh đô Lan Xang mang danh hiệu "Luangprabang" (nơi đặt Phra Bang).
Với pho tượng Phật Phra Bang, Lan Xang tự đặt mình vào trung tâm Mandala, chiêu dụ được các xứ phên giậu về tòng phục. Triều vua Phothisarat cũng thành công củng cố phép cai trị, kiểm soát từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, quan hệ kiểm soát này chủ yếu vẫn dựa trên quan hệ cá nhân giữa vua tôi chứ không theo hàng ngũ hành chánh nào cả. Triều đình Lan Xang giữ ngôi bằng cách liên minh cưới gả với các lãnh chúa trong khi nguy cơ phản loạn và ly khai vẫn tiếp tục như trường hợp Bồn Man dấy binh chống lại Lan Xang năm 1532.
Khi vua nước Lan Na mất, trong triều chia bè phái tranh nhau; Ayutthaya lấy cớ đó phái binh lên đánh Lan Na. Lan Xang phải gửi binh tiếp viện đẩy lui quân Ayutthaya vào năm 1536. Triều đình Lan Na lập con của Phothisarat là Sethathirat lên làm vua, biến Lan Na thành chư hầu của Lan Xang.
Năm 1563, Vương quốc Taungoo của người Miến hùng mạnh, uy hiếp cả khu vực. Vua Lan Xang là Setthathirath phải thiên đô về Viêng Chăn, cùng rước tượng Phật Ngọc (Phra Keo) từ Lan Na về Viêng Chăn. Nước Lan Xang từ đó có hai pho tượng quý: Phật Phra Bang ở Luangprabang và Phật Phra Keo ở Viêng Chăn.
Trong khi đó Taungoo mở cuộc xâm lăng về phía đông. Lan Xang và Ayutthaya cùng là tộc người Thái nên tìm cách liên minh nhưng quân Miến quá mạnh. Ayutthaya thất thủ năm 1568 rồi bị quân Miến đốt phá tan hoang. Taungoo sau đó chuyển quân lên đánh Viêng Chăn. Setthathirath cầm quân đẩy lui được quân Miến nhưng rồi qua đời một cách bí ẩn khi đi tuần du ở Hạ Lào.
Suy vong[sửa | sửa mã nguồn]Sau cái chết của vua Setthathirath năm 1571, Lan Xang một lần nữa rơi vào cảnh tranh giành ngôi báu. Taungoo đã nhân cơ hội này can thiệp vào Lan Xang, chính thức đưa Lan Xang thành chư hầu của mình suốt 30 năm. Chuyện tranh giành ngôi báu vẫn tiếp tục. Mãi đến năm 1638, khi vua Surinyavongsa lên cai trị, khủng hoảng chính trị mới chấm dứt. Nhưng đến khi vị vua này qua đời vào năm 1695, Lan Xang lại tiếp tục rơi vào khủng hoảng bởi tranh giành nội bộ, và kết quả là nó đã chính thức chấm dứt khi bị phân chia thành ba vương quốc nhỏ là Vương quốc Luang Phrabang ở phía bắc, Vương quốc Viêng Chăn ở trung tâm và Vương quốc Champasak ở phía nam vào năm 1707.
Các vua Lanxang (1353 - 1975):
Fa Ngum (1353 - 1375) Vutha Singsavaddy (1375 - 1378) Samsenethai (1378 - 1416) Lan Kham Deng (1417 - 1428) Phommathat (1428 - 1429 Khamtum (Thao Khamtum) (1429) Meun Sai (1429 - 1430) Fa Khai (1430 - 1433) Khong Kham (1433 - 1434) Yukhon (1434 - 1435) Kham Keut (1435 - 1441) Chaiyachakkapat-Phaenphaeo (Sao Tiakaphat) (1441 - 1478) Suvarna Banlang (Theng Kham) (1479 - 1485) Lahsaenthai Puvanart (1485 - 1495) Sompou (Samphou) (1495 - 1500) Vixun (1501 - 1520) Photisarath I (1520 - 1547) Xaysethathirath (1548 - 1571) Saensurin (1572 - 1574) (1580 - 1582) Mahaupahat (phụ thuộc vào Miến Điện) (1575 - 1580) Nakhon Noi (phụ thuộc vào Miên Điện) (1582 - 1583) Nokeo Koumone (1591 - 1596) Thammikarath (1596 - 1622) Upanyuvarat (1622 - 1623) Photisarath II (1623 - 1627) Mon Keo (Mongkeo) (1627) Tone Kham (1627 - 1633) Vichai (1633 - 1637) Surinyavongsa (1637 - 1694)+ Vương quốc Champasak (1700-1946):
Nan Rath/soysysamoun (1700 - 1713?) Nokasat (1713 - 1738) Saya Kumane (1738 - 1791) Xiang Keo (1791) Fay Na (1791 - 1811) No Muong (1811) Cha Nou (1811 - 1813) Ma Noi (1813 - 1819) Rajabud Yo (1821 - 1827) Hui (1827 - 1840) Nak (1840 - 1851) Boua (1851 – 1852) (là nhiếp chính trên danh nghĩa) Kham Nai (1856 - 1858) Chu (1858 - 1860) (là nhiếp chính trên danh nghĩa) Kham Suk (1863 - 28 tháng 7 năm 1900) Ratsadanay (28 tháng 7 năm 1900 - 22 tháng 11 năm 1904)Hoàng thân
Ratsadanay (22 tháng 11 năm 1904 – tháng 6 năm 1946) Boun Oum (tháng 6 năm 1946 - 27 tháng 8 năm 1946)+ Vương quốc Viêng Chăn (1707-1828):
Setthathirath II (1707 - 1730) Ong Long (1730 - 1767) Ong Bun (1767 - 1778) (lần thứ nhất) Phraya Supho (1778 - 1780) (toàn quyền người Thái) Ong Bun (1780 – tháng 11 năm 1781) (lần thứ hai) Nanthasen (21 tháng 11 năm 1781 – tháng 1 năm 1795) Intharavong Setthathirath III (2 tháng 2 năm 1795 - 7 tháng 2 năm 1805) Anouvong (7 tháng 2 năm 1805 - 12 tháng 11 năm 1828)+ Vương quốc Luang Phrabang (1707-1946):
Kitsarat (1707 - 1713) Ong Kham (1713 - 1723) Thao Ang (Inthason) (1723 - 1749) Intharavongsa (1749) Inthaphom (1749) Sotika-Kuomane (1749 - 1768) Surinyavong II (1768 - 1788) Anurutha (3 tháng 2 năm 1792 - 179..) (lần thứ nhất) Anurutha (2 tháng 6 năm 1794 - 31 tháng 12 năm 1819) (lần thứ hai) Manthaturath (31 tháng 12 năm 1819 - 7 tháng 3 năm 1837) Unkeo (1837 - 1838) (nhiếp chính trên danh nghĩa) Sukha-Söm (1838 - 23 tháng 12 năm 1850) Chantha-Kuman (23 tháng 9 năm 1850 - 1 tháng 10 năm 1868) Oun Kham (1 tháng 10 năm 1868 - 15 tháng 12 năm 1895) Zakarine (15 tháng 12 năm 1895 - 25 tháng 3 năm 1904) Sisavang Vong (26 tháng 3 năm 1904 - 27 tháng 8 năm 1946)Sisavang Vong trở thành Quốc vương của Vương quốc Lào từ ngày 12 tháng 10 năm 1945.
+ Vương quốc Lào (1946-1975):
Quốc vương Sisavang Vong (15 tháng 9 năm 1945 - 20 tháng 10 năm 1945) Hoàng thân Phetsarath Rattanavongsa (20 tháng 10 năm 1945 - 23 tháng 4 năm 1946) Quốc vương Sisavang Vong (23 tháng 4 năm 1946 - 29 tháng 10 năm 1959) Savang Vatthana (30 tháng 10 năm 1959 - 2 tháng 12 năm 1975)Bạn nào học rùi thì giúp mình nha.
Đọc thông tin kết hợp với quan sát hình ảnh,hãy giới thiệu một trong những thành tựu lớn về văn hóa,khoa học kĩ -kĩ thuật của Trung Quốc mà em thích.Giai thích vì sao em thích thành tựu đó.
dola la ban boi vi la ban chi huong di khi chung ta bi lac phuong huong
1. Các quốc gia ĐNA (viết tắt) hiện nay là: Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan, Mi-an-ma, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Bru-nây và Đông-ti-mo. Cư dân ĐNA từ xa xưa đã biết trồng lúa và nhiều loại trái cây.
Giới thiệu về Vương quốc Cam-pu-chia
Vương quốc Campuchia là một trong những địa điểm du lịch mới và hẫp dẫn nhất trên thế giới. Sau hơn 25 năm cô lập, Campuchia mở cửa đón khách du lịch vào những năm đầu của thập niên 90 và lượng khách du lịch tăng lên qua từng năm. Tuy nhiên, hoạt động du lịch và thương mại của Campuchia vẫn kém các nước láng giềng và chưa tương xứng với tiềm năng tuyệt vời của đất nước này.
Campuchia là vùng đất của những cái đẹp, các ngôi đền cổ kính thuộc quần thể Angkor, đền Bayon và sự sụp đổ của đế chế Khmer luôn mang dấu ấn của sự trang trọng, hùng vĩ và chiếm vị trí trung tâm trong các kỳ quan thế giới – có thể so sánh với Machu Picchu, Kim tự tháp Ai Cập hay Vạn lý trường thành. Nhưng sự hùng vĩ này lại trái ngược với Cánh đồng chết và bảo tàng tội ác diệt chủng Toul Sleng, cũng như trái ngược với những chứng tích lịch sử cận đại của Campuchia, thời gian mà lực lượng Polpot và chế độ cực đoan Khmer Đỏ cai trị cuối những năm 1970, gây nên một trong những tội ác ghê rợn và tàn bạo nhất của thế kỷ 20.
Người Khmer chiếm 95% dân số Campuchia đã tạo ra những ấn tượng sâu đậm cho khách du lịch, họ chính là những người thân thiện và hạnh phúc nhất mà du khách từng gặp. Nụ cười người Khmer có ở khắp nơi, như trong chuyện cổ tích và truyền thống đậm đà bản sắc riêng của dân tộc này. Campuchia vì vậy thật sự là vùng đất của sự tương phản: giữa ánh sáng và bóng tối, giữa những bản hùng ca và những bi kịch, giữa sự quặn đau tuyệt vọng và nguồn cảm hứng tương lai. Dường như đó là một đặc điểm vô song của đất nước Campuchia. Điều đó thúc đẩy bất cứ du khách nào cũng khát khao một lần đặt chân lên mảnh đất này.
Lịch sử
Nền văn minh đầu tiên được biết tại Campuchia xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ thứ nhất; từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13, nền văn minh Khmer đã phát triển rực rỡ ở đây.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phù Nam (Funan) là vương quốc cổ, tồn tại từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7, thời thịnh trị có lãnh thổ rộng lớn ở phía nam bán đảo Đông Nam Á, bao gồm Campuchia, nam Việt Nam, nam Thái Lan ngày nay. Lúc này ở khu vực Bắc Campuchia và Nam Lào có một thuộc quốc là Chân Lạp (Chenla) được hình thành từ thế kỷ 5 của tộc người Môn-Khmer. Vào thế kỷ 7, Chân Lạp thoát khỏi sự lệ thuộc vào Phù Nam rồi chiếm toàn bộ lãnh thổ Phù Nam.
Triều đại cầm quyền của Chân Lạp có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Campu, lấy nàng Naga (con gái thần nước, biến từ rắn thành thiếu nữ). Tên gọi "Campuchia", xuất hiện vào khoảng thế kỷ 10, gắn với tên nhân vật này. Sau năm 707, Chân Lạp tách thành hai quốc gia Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp.
Sau hàng thế kỷ (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18) bị mất đất đai và dân số cho các quốc gia Thái Lan và Việt Nam thì Campuchia lại bị bảo hộ bởi Pháp trong Liên bang Đông Dương vào năm 1863. Sau sự xâm chiếm của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai thì Pháp lại quay lại. Campuchia tuyên bố độc lập vào năm 1953, trở thành một vương quốc. Năm 1960, Thái tử Norodom Sihanouk lên làm Quốc trưởng chứ không làm vua sau khi vua cha mất. Ông thi hành chính sách trung lập.
Địa lý
Diện tích Campuchia khoảng 181.040 km², có 800 km biên giới với Thái Lan về phía bắc và phía tây, 541 km biên giới với Lào về phía đông bắc, và 1.137 km biên giới với Việt Nam về phía đông và đông nam. Nước này có 443 km bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan.
Đặc điểm địa hình nổi bật là một hồ lớn ở vùng đồng bằng được tạo nên bởi sự ngập lụt. Đó là hồ Tonle Sap (Biển Hồ), có diện tích khoảng 2.590 km² trong mùa khô tới khoảng 24.605 km² về mùa mưa. Đây là một đồng bằng đông dân, phù hợp cho cấy lúa nước, tạo thành vùng đất trung tâm Campuchia. Phần lớn (khoảng 75%) diện tích đất nước nằm ở cao độ dưới 100 mét so với mực nước biển, ngoại trừ dãy núi Cardamon (điểm cao nhất là 1.771 m), phần kéo dài theo hướng bắc-nam về phía đông của nó là dãy Voi (cao độ 500-1.000 m) và dốc đá thuộc dãy núi Dangrek (cao độ trung bình 500 m) dọc theo biên giới phía bắc với Thái Lan.
Nhiệt độ dao động trong khoảng 10-38 °C. Campuchia có các mùa mưa nhiệt đới: gió tây nam từ Vịnh Thái Lan/Ấn Độ Dương đi vào đất liền theo hướng đông bắc mang theo hơi ẩm tạo thành những cơn mưa từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó lượng mưa lớn nhất vào khoảng tháng 9, tháng 10; gió đông bắc thổi theo hướng tây nam về phía biển trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, với thời kỳ ít mưa nhất là tháng 1, tháng 2.
Campuchia cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quí hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi và bò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa diệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng.
Dân cư và ngôn ngữ
Campuchia là quốc gia thuần nhất về dân cư với hơn 90% dân số là người Khmer và nói tiếng Khmer, ngôn ngữ chính thức. Số còn lại là người Việt, người Hoa, người Chàm và người Thượng sống tập trung ở miền núi phía bắc và đông bắc.
Phật giáo Tiểu thừa bị Khmer Đỏ hủy diệt đã được phục hồi là tôn giáo chính thức, với khoảng 95% dân số. Phật giáo Đại thừa chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Việt và người Hoa. Hồi giáo và đạo Bà la môn ở các cộng đồng Chăm, Thiên chúa giáo chiếm khoảng 2% dân số...
Tiếng Pháp và tiếng Anh được nhiều người Campuchia sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai và thông thường là ngôn ngữ phải học trong các trường phổ thông và đại học. Nó cũng được sử dụng thường xuyên trong chính quyền. Một số lớn trí thức mới của Camphuchia được đào tạo tại Việt Nam là một thuận lợi cho quan hệ kính tế, văn hóa ba nước Đông Dương.
Cuộc nội chiến có ảnh hưởng mạnh đến cấu trúc dân số Campuchia. Độ tuổi trung bình là 20.6, với hơn 50% dân cư trẻ hơn 25 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 0.95, thấp nhất trong số các quốc gia tiểu khu vực sông Mê Kông[2]. Trong số người Campuchia độ tuổi hơn 65, tỷ lệ nữ/nam là 1.6:1.
Du lịch
Du lịch tại Campuchia tập trung chia làm 5 vùng trọng điểm.
1. Vùng thủ đô Phnôm Pênh:
* Cung điện Hoàng gia Campuchia
* Chùa Bạc
* Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh
* Tượng đài Độc lập Phnôm Pênh (Vimean Akareach)
* Tượng đài Hữu nghị Việt Nam - Campuchia
* Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng
* Chùa Wat Phnom
* Trung tâm Diệt chủng Choeung Ek
* Cố đô OOdong
* Phnom Đa/Angkor Borei
* Tháp Bà Đen - Prasat Neang Khmau
* Tonle Bati/Ta Prohm
* Núi Ta Mao và Vườn thú Ta Khmau
* Đảo Mekong - làng thủ công Koh Okhna Tey
Nghệ thuật
Kiến trúc của Campuchia phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ thời thời Khmer cổ đại (khoảng cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13). Đạo Phật và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc vĩ đại này.
Đặc trưng cơ bản của kiến trúc giai đoạn này là được xây dựng từ vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay người ta có thể chiêm ngưỡng là các công trình bằng đá tảng như các bức tường thành, đường sá,... và các ngôi đền hoặc các con đường có những bao lơn tạc hình con rắn chín đầu, vươn cao 2-3 m, xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Campuchia bấy giờ, hay cuộc chiến với nước láng giềng vũ nữ dân gian (Ápsara) với thân hành mềm mại, cân đối đang múa khá uyển chuyển, và sự tham gia của cả những con khỉ, con ngựa trong sử thi Ramanaya của Ấn Độ.
Bên cạnh đó, hình thức khắc những ký tự hay con số cũng rất phổ biến ở công trình. Các ngôi đền thường có một cửa còn ở ba phía còn lại của đền cũng có cửa nhưng chỉ là giả, để tạo cảm giác đối xứng cho ngôi đền. Công trình nổi tiếng nhất ở đây là ngôi đền Bayon với 200 gương mặt của thần Avalokitesvara (một dạng của Quan Âm Bồ Tát).
Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường và bàn tay tài ba của những người dân Khmer cổ đại. Kiến trúc của Campuchia cũng có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc của Thái Lan và người Chăm của Việt Nam.
Đọc thông tin và quan sát các hình 3, 4, em hãy:
- Cho biết lễ Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức vào thời gian nào? Ở đâu?
- Giới thiệu sơ lược về lễ Giỗ Tổ Hùng Vương và nêu ý nghĩa của ngày Giỗ Tổ.
Tham khảo:
- Lễ giỗ Tổ Hùng Vương tổ chức ở Đền Hùng và vào ngày mồng Mười tháng Ba âm lịch hằng năm.
- Nghi thức quan trọng nhất của phần lễ là lễ rước kiệu, lễ dâng hương. Phần hội được tổ chức với nhiều hoạt động phong phú: diễn xướng hát Xoan, múa rối nước, liên hoan văn nghệ, hội trại văn hóa, hội thi gói bánh, hội thi thể thao,..
đọc thông tin kết hợp quan sát hình ảnh ,hãy giới thiệu một trong những thành tựu lớn về văn hóa ,khoa học -kĩ thuật của Trung Quốc mà em thích .giải thích vì sao em thích thành tựu đó
sách hướng dẫn khxh 7 trang 98
Thành tựu lợn về văn hóa, khoa học- kĩ thuật của Trung Quốc mà em thích là la bàn. Vì: La bàn đầu tiên được gọi là "kim chỉ Nam" do người Trung Hoa phát minh rất sớm, ngay khi người ta tìm ra được từ lực và đá nam châm. Người Trung Quốc xem hướng Nam là hướng của vua chúa nên dùng chữ "chỉ Nam" chứ không dùng chữ chỉ Bắc. Kim chỉ nam ngày xưa khác la bàn ngày nay. Nó có hình dáng một cái muỗng cắt ra từ một miếng nam châm thiên nhiên và được đặt trên một cái đế bằng đồng đã được mài láng để giảm ma sát. (Lúc đó người ta đã biết đồng là kim loại không có ảnh hưởng trên từ trường, và do đó, không làm lệch hướng của kim nam châm). Phần muỗng tròn láng để chính giữa đế đồng làm trọng tâm thành ra cáng của kim chỉ nam có thể quay xung quanh. Sau khi muỗng đứng im (cân bằng tĩnh), cán muỗng chỉ hướng Nam. Trung Quốc cũng được coi là nước đầu tiên dùng la bàn trong ngành hàng hải.
nhớ click đúng cho mình chúc cá bạn học tốt
+Văn hóa:
- Tư Tưởng: Nho giáo làm nên tảng của xã hội phong kiến
-Văn học : Có nhiều nhà thơ , văn nổi tiếng như Lý Bạch , Đỗ Phủ , Bạch Cư Dị .....có nhiều bộ tiểu thuyết khổng lồ Tây Du Kí , Tam Quốc diễn nghĩa ....
-Sử học : + bộ sử kí - Tư Mã Thiên
+ Hán thư , Đương thư...
+Nghệ thuật :
- Hội họa , kiến trúc , điêu khắc , thủ công mĩ nghệ đặt trình độ cao , .....
+Khoa học kĩ thuật:
- Tứ đại phát minh : giấy viết , nghề in , la bàn , thuốc súng
- Kỹ thuật đóng tàu có : bánh lác , luyện sắc , khai thác dầu mỡ , khí đất , diệt , đồ gốm
Từ đó suy ra : Đóng góp to lớn cho lịch sử văn minh nhân loại
Đọc thông tin kết hợp quan sát hình và giới thiệu về vương quốc Lan-xang
- Chủ nhân đầu tiên của nước lào là người Lào hong.
- Từ thế kỉ XIII người
Thái di cư đến gọi là Lào Lùm.
- Năm 1353: nước Lạn xạng được thành lập.
- Thế kỉ XV-TK XVII
thời kì phát triển thịnh vượng.
- Thế kỉ XVIII nước lạn xạng suy yếu.
- Cuối TK XIX trở thành thuộc địa của Pháp
Vương quốc Lan Xang
- Có nghĩa là "đất nước triệu voi" (Lan: triệu, Xang: voi)
- Là quốc gia đầu tiên của người Lào, được vua Phà Ngừm khai sáng năm 1354.
- Phà Ngừm giỏi việc binh nên bình định được các chao muang địa phương năm 1354, thống nhất xứ Lào, xưng quốc hiệu là Lan Xang
- Kinh đô đặt ở Xieng Dong Xieng Thong ở xứ Muang Sua cũ.
- Biên cương nước Lan Xang rộng lớn nhất nhì Đông Nam Á lúc bấy giờ.
- Năm 1373, dân Lan Xang không phục nên Phà Ngừm phải bỏ ngai vàng.
- Lan Xang dưới các triều vua Vixun (1501–20), Phothisarat (1520–47) và Setthathirath (1548–71) hưởng thời kỳ vàng son, thịnh trị. Ba vị vua này giữ nguyên phép cai trị cũ trong khi nâng cao Phật giáo của các tiền triều.
- Sau cái chết của vua Setthathirath năm 1571, Lan Xang một lần nữa rơi vào cảnh tranh giành ngôi báu. Taungoo đã nhân cơ hội này can thiệp vào Lan Xang, chính thức đưa Lan Xang thành chư hầu của mình suốt 30 năm.
- Mãi đến năm 1638, khi vua Surinyavongsa lên cai trị, khủng hoảng chính trị mới chấm dứt. Nhưng đến khi vị vua này qua đời vào năm 1695, Lan Xang lại tiếp tục rơi vào khủng hoảng bởi tranh giành nội bộ, và kết quả là nó đã chính thức chấm dứt khi bị phân chia thành ba vương quốc nhỏ là Vương quốc Luang Phrabang ở phía bắc, Vương quốc Viêng Chăn ở trung tâm và Vương quốc Champasak ở phía nam vào năm 1707.