Tại sao các nhiễm sắc thể phải co xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau?
Tại sao các NST phải co xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau?
Trước khi bước vào kì sau các NST cần co xoắn tối đa để dễ dàng di chuyển trong quá trình phân bào. Sau khi phân chia xong chúng phải giãn xoắn để các gen thực hiện phiên mã.
Câu 2: Tại sao các NST phải co xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau?
Các NST phải xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau là để thu gọn lại (tránh sự cồng kềnh) dễ di chuyển trong quá trình phân bào. Sau khi phân chia xong. NST phải dãn xoắn để tạo điều kiện cho các gen phân mã.
Các NST phải xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau là để tránh sự cồng kềnh khó di chuyển trong quá trình phân bào. Sau khi phân chia xong. NST phải dãn xoắn để tạo điều kiện cho các gen phiên mã.
Nếu NST sau khi nhân đôi, lại tách rời nhau rồi mới phân li về 2 cực của tế bào thì có thể tạo ra những sai lệch trong nguyên phân. Vì vậy mà sau khi nhân đôi, NST vẫn còn dính với nhau ở tâm động, đảm bảo cho việc phân chia đồng đều các nhiễm sắc tử về các tế bào con.
Câu 1. Chu trình tế bào gồm những giai đoạn nào, nêu ý nghĩa của việc điều hòa chu kì tế bào.
Câu 2. Giải thích tại sao các NST phải co xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau?
Câu 3. Điều gì sẽ xảy ra nếu ở kì giữa của nguyên phân, thoi phân bào bị phá hủy?
Tham khảo:
Chu kì tế bào là trình tự các giai đoạn mà tế bào cần phải trải qua trong khoảng thời gian giữa hai lần phân bào. Trình tự này bao gồm hai giai đoạn được gọi là kì trung gian và các kì của nguyên phân
Chu kì tế bào gồm:Kì trung gian: Pha G2: tổng hợp các chất còn lạiPha S: nhân đôi ADN và NSTPha G1: tổng hợp các chất cần thiết cho sự sinh trưởngQuá trình nguyên phânatit). Kết thúc giai đoạn s, tế bào sẽ chuyển sang giai đoạn G2. Lúc này tế bào phải tổng hợp tất cả những gì còn lại cần cho quá trình phân bào.Ý nghĩa của điều hòa chu kì tế bào: Trong cơ thể đa bào, sự phối hợp giữa các tế bào là đặc biệt cần thiết để duy trì sự tồn tại bình thường của cơ thể.Câu 2:Trước khi bước vào kì sau các NST cần co xoắn tối đa để dễ dàng di chuyển trong quá trình phân bào. Sau khi phân chia xong chúng phải giãn xoắn để các gen thực hiện phiên mã.Câu 3:Nếu ở kì giữa của nguyên phân thoi phân bào bị phá hủy thì các nhiễm sắc tử của NST kép không thể di chuyển về 2 cực của tế bào để phân chia thành 2 tế bào con. Điều này sẽ làm hình thành tế bào tứ bội 4n.
tham khảo
1,Chu kì tế bào là trình tự các giai đoạn mà tế bào cần phải trải qua trong khoảng thời gian giữa hai lần phân bào. Trình tự này bao gồm hai giai đoạn được gọi là kì trung gian và các kì của nguyên phân.
Kì trung gian được chia thành các pha nhỏ là G1, S và G2. Ngay sau khi vừa mới phân chia xong, tế bào bước vào giai đoạn được gọi là G1.
Trong giai đoạn này, tế bào tổng hợp các chất cần cho sự sinh trưởng. Khi tế bào sinh trưởng đạt được một kích thước nhất định thì chúng tiến hành nhân đôi ADN để chuẩn bị cho quá trình phân bào. Giai đoạn nhân đôi ADN và nhiễm sắc thể được gọi là giai đoạn S. Các nhiễm sắc thể được nhân đôi nhưng vẫn có dính với nhau ở tâm động tạo nên một nhiễm sắc thể kép bao gồm 2 nhiễm sắc thể (crômatit). Kết thúc giai đoạn s, tế bào sẽ chuyển sang giai đoạn G2. Lúc này tế bào phải tổng hợp tất cả những gì còn lại cần cho quá trình phân bào.
Ý nghĩa của điều hòa chu kì tế bào: Trong cơ thể đa bào, sự phối hợp giữa các tế bào là đặc biệt cần thiết để duy trì sự tồn tại bình thường của cơ thể.
tham khảo
2,Sự co xoắn cực đại làm hạn chế sự đứt gãy của NST khi phân chia. Nếu như ko đóng xoắn như vậy, NST có thể bị đứt hoặc bị đan chéo vào nhau trong khi di chuyển, gây đột biến trong quá trình phân li, làm biến đổi vật chất di truyền
trong quá trình nguyên phân , tại sao vào kì giữa , các nhiễm sắc thể lại co xoắn cực đại
Trong quá trình nguyên phân, vào kì giữa các NST lại co xoắn cực đại giúp chúng thu gọn chiều dài để từ đó di chuyển về hai cực của tế bào nột cách thuận tiện. Khi ở kì trung gian, NST lại cần ở trạng thái duỗi xoắn, để các mạch ADN có thể tách nhau ra và tự nhân đôi thành 2 phân tử ADN mới, làm cơ sở cho sự nhân đôi của NST. Nếu các NST vẫn giữ ở dạng sợi mảnh, dài loằng ngoằng thì rất khó di chuyển, dễ đứt gãy nên việc thu gọn chiều dài bằng cách co xoắn lại cũng là một đặc điểm thích nghi của sinh vật.
để giúp nhiễm sắc thể xếp thành một hàng trebn mặt phẳng xích đạo của thoi phân bào
trong quá trình nguyên phân , tại sao vào kì giữa , các nhiễm sắc thể lại co xoắn cực đại ?
Có cần Ctrl+C rồi Ctrl+V dài thế không chứ.
Đây là tự nhớ rồi nói,trong bài làm chỉ cần nêu vài ít cơ bản như thế này là được rồi:
- Kì trung gian: NST duỗi xoắn thành sợi mảnh, dài và nhân đôi thành NST kép-
- Kì đầu: hình thành thoi phân bào, màng nhân và nhân con tiêu biến. NST bắt đầu đóng xoắn và co ngắn đính vào các tơ vô sắc của thoi phân bào.
- Kì giữa: NST kép đóng xoắn và co ngắn cực đại tập trung thành hàng trên mặt phẳng xích đạo của thoi phân bào.
- Kì sau: NST kép gồm 2 sợi crômatit tách nhau ở tâm động và phân li về 2 cực của tế bào.
- Kì cuối: thoi phân bào biến mất, màng nhân và nhân con xuất hiện. Hình thành vách ngăn. NST duỗi xoắn thành dạng sợi mảnh.
chuẩn bị cho sự phân li NST đồng đều về 2 cực của tế bàovà di chuyển dễ dàng trong quá trình phân bào (thu gọn và tránh sự cồng kềnh)
Tại sao các NTS phải co xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau?
Giups mới mn ơi,mai tui thi òi
Các NTS phải xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau là để thu gọn lại (tránh sự cồng kềnh) dễ di chuyển trong quá trình phân bào.Sau khi phân chia xong.NTS phải dãn xoắn để tạo điều kiện cho các gen phân mã.
Các NTS phải xoắn tối đa trước khi bước vào kì sau là để thu gọn lại (tránh sự cồng kềnh) dễ di chuyển trong quá trình phân bào.Sau khi phân chia xong.NTS phải dãn xoắn để tạo điều kiện cho các gen phân mã.
Tại sao ở kì đầu của nguyên phân nhiễm sắc thể lại có xoắn trước rồi mà nhân mới dần tan biến ?
tk:
theo em giải thích đơn giản là địa y là một dạng sinh vật đặc biệt được hình thành do sự chung sống giữa một loại tảo và nấm. Các sợi nấm hút nước và muối khoáng cung cấp cho tảo. Tảo nhờ có chất diệp lục, sử dụng chúng để chế tạo chất hữu cơ nuôi sống cả hai bên. Địa y dc hình thành theo dạng cộng sinh nên tự thân nó ko thể tự tổng hợp hũư cớ nên ngưòi ta xếp chúng vào giới nấm.
Có 10 tế bào sinh tinh của 1 cơ thể 2n=6, bước vào giảm phân hình thành giao tử, biết mỗi cặp nhiễm sắc thể chứa ít nhất 1 cặp gen dị hợp.Số cách sắp xếp tối đa của các cặp nhiễm sắc thể ở kì giữa I trong các tế bào là:
A. 10
B. 8
C. 6
D. 4
Đáp án : D
2n = 6 <=> có 3 cặp NST tương đồng trong bộ gen
=> Số loại giao tử tối đa có thể tạo ra là 23 = 8
=> Số cách sắp xếp tối đa có của các cặp nhiễm sắc thể ở kì giữa I là 23 : 2 = 4
Mà có 10 tế bào sinh tinh, sẽ đáp ứng đủ được tối đa 4 cách sắp xếp
tại sao nhiễm sắc thể phải co xoắn cự đại rồi mới phân chia trong giảm phân ?