Văn bản ngữ văn 10

Nguyễn Thị Hằng

Đề 1: Chủ nghĩa yêu nước trong bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi.

Đề 2:

Khách có kẻ

Giương buồm giong gió chơi vơi

Lướt bể chơi trăng mải miết

…………………………………………

…………………………………………

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên, từ đó nhận xét về niềm tự hào dân tộc của Trương Hán Siêu được thể hiện trong văn bản.

Đề 3: Từ bài Phú sông Bạch Đằng, hãy liên hệ và trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò và vị trí của con người trong thời chiến, thời bình và trong cuộc sống hôm nay.

Đề 4: Phân tích giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng

giúp mk vs ạ

Nguyen
1 tháng 3 2020 lúc 10:03

Đề 1:

Bình Ngô đại cáo là phát biểu chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi và thể hiện một tài năng tuyệt vời về nghệ thuật viết hùng văn của tác giả. Tình cảm thương dân, tinh thần trọng dân, ý chí vì dân là nội dung quán xuyến trong thơ văn Nguyễn Trãi, là mệnh đề nổi bật trong chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Trãi. Nhận thức về người dân của ông là một nhận thức sâu sắc và nảy sinh từ thực tiễn. khi nêu cao vị trí và vai trò người dân. Nguyễn Trãi đã phản ảnh thực tế của lịch sử cũng như yêu cầu lịch sử. nói đến nước là nói đến dân, hơn nữa trước hết là nói đến dân, nhân dân lại cần phải có nước. Quan niệm của Nguyễn Trãi về một đất nước, cần nhấn mạnh ý nghĩa to lớn của truyền thống văn hóa lâu đời mà ông đưa vào bài cáo:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.”

Lời tuyên bố, nói lên nước Việt ta có một nền văn hiến độc lập và đất nước bờ cõi phân chia rõ ràng. Không phải như sự đầu độc tư tưởng của phương Bắc cho rằng nước ta là do chúng dựng nên và nền văn hóa cũng như thế. Điều này thật là phi lý. Bởi phong tục bắc nam đã cũng khác, thể hiện lên nước ta vốn dĩ đã được hình thành và phát triển tự thân, trải qua bao thăng trầm lịch sử mà vẫn thích nghi và giữ gìn được bản sắc của mình. Thế nên sao gọi là phương Bắc truyền dạy nền văn minh. Vấn đề này đã thể hiện rõ tính dân tộc và tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc, bắt buộc phải giữ gìn không một ngoại bang nào có thể xâm phạm.

Đây là một văn bản chính thức của nhà nước, thì chính là để khẳng định tính độc lập của nền văn hóa dân tộc, chính là để tự hào về nền văn hóa dân tộc. Bình Ngô đại cáo chính là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. Bài cáo đã thể hiện nổi bật lòng yêu nước thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc sâu sắc hào khí ngất trời của Nguyễn Trãi trước những chiến thắng oanh liệt trong cuộc đấu tranh giữ nước vĩ đại của thời đại ông và của cả dân tộc.

Tinh thần chủ đạo, lấy dân làm gốc, nhận thức được nền tảng chiến thắng chính yếu là nhờ vào lòng dân, nhờ vào ý chí một lòng của dân. Nguyễn Trãi đã nhận thức được vấn đề này, cùng với lòng nhân đạo và tinh thần yêu nước nồng nàn, ông khẳng định:

“Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Thấy lũ quân ác bá cướp nước chúng chẳng phải là nhân nghĩa gì cả. Chỉ toàn là cướp bóc một cách tàn bạo: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”. Chí căm hờn và tức tối của Nguyễn Trãi càng nung nấu sôi sục hơn bởi lũ ngoại ban vơ vét tài nguyên đất nước, bắt đóng thuế khóa nặng nề, bắt dân ta làm chuyện nguy hiểm đến tính mạng, coi mạng sống dân ta thật khác nào nô lệ cỏ cây: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Còn dã man, tàn bạo đến mức:

“Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Nặng nề những nỗi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi.”

Thấy vậy ai mà không thương tâm cho tình cảnh đất nước đang bị dày xéo, dân ta đang bị áp bức bóc lột một cách dã man. Thấy vậy ai mà không căm phẫn bọn giặc Ngô. Tình cảm thương dân, đau cùng nỗi đau của dân, tận mắt chứng kiến: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực, thật đau lòng. Và cũng chính lòng yêu nước này, thương dân này, mọi người con dân đất Việt ai cũng có. Cho nên, dù rằng là tình cảm và lòng nhiệt quyết của Nguyễn Trãi với đất nước, với nhân dân, nhưng cũng đồng thời Ông đã quật dậy ý chí kiên cường bất khuất của toàn dân, quật dậy tình cảm yêu cuộc sống thanh bình, yêu gia đình quê hương đất nước của mọi người. Từ đó mà trên dưới một lòng chống ngoại bang. Đây cũng khẳng định tinh thần đoàn kết toàn dân của Nguyễn Trãi, mà cũng đề cao vai trò chiến thắng là ở toàn dân và luôn đặt lợi ích của dân lên trước nhất. Chính vì chính nghĩa này nên cuộc chiến thắng lợi.

Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm:

“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”

Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ông không ít lần nhắc đến điều đó:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng.

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Cũng luôn cánh cánh “làm cho khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa không có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân.

Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất: quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.

Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi

Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng - Mạnh. Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định ở đầu tác phẩm.

Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để công phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con đường sống:

Thần vũ chẳng giết hại,

Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Cấp cho phương tiện trở về:

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền...

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa...

Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng. Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức".

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện, vừa cụ thể; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn:

Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo

Với lý tưởng nhân nghĩa ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần.

Khi Khôi Huyện quân không một đội

Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho:

Xã tắc từ đây bền vững

Giang sơn từ đây đổi mới

...Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu

Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.

Bình Ngô đại cáo là tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Trãi. Tác phẩm có giá trị tư tưởng, văn học thể hiện triết lý sống của dân tộc trong mọi hoàn cảnh,trong việc đấu tranh cũng như trong hòa bình độc lập. Một tác phẩm được xem là áng thiên cổ hùng văn, vô tiền khoán hậu. Viết cho Lê Lợi thay mặt quốc gia để đọc tuyên cáo về cuộc chiến của dân tộc ta mất nhiều mất mát nhưng điểm cuối cùng tạo nên bản thiên hùng ca kết thúc thắng lợi.

Bình Ngô đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngô” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Bình Ngô đại cáo chính là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. Bài cáo đã thể hiện nổi bật lòng yêu nước thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc sâu sắc hào khí ngất trời của Nguyễn Trãi trước những chiến thắng oanh liệt trong cuộc đấu tranh giữ nước vĩ đại của thời đại ông và của cả dân tộc.

Chúng ta đều biết, bài Cáo được Nguyễn Trãi viết thay mặt Lê Lợi sau khi giặc Minh thất bại nhục nhã phải rút về nước. Phải chăng đây là một thông điệp cho nhà Minh? Khả năng này hầu như không thể có vì giặc xâm lược đã rút về, nhiệm vụ lịch sử lớn nhất là giành lại độc lập dân tộc với giá hy sinh thấp nhất đã hoàn thành. Với chủ trương hoà hiếu, để nhân dân hai nước nghỉ sức, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương khoan hồng, cấp lương thực và phương tiện cho chúng về nước.

Là một thông điệp hướng tới nhân dân Ðại Việt, Bình Ngô đại cáo muốn nói những gì với người nước Việt? Ðức lớn nhất, đó là hiếu sinh, biểu hiện cụ thể nhất qua nhân nghĩa. Hiếu sinh áp dụng cho muôn vật, nhân nghĩa là hiếu sinh áp dụng cho con người. Lê Lợi tích lũy đủ năng lượng Ðức qua lòng nhân nghĩa, qua đức hiếu sinh được trời, người mến mộ và Ðức đó đã được kiểm chứng thực tế qua cuộc kháng chiến vừa xảy ra. Vì vậy, lên ngôi Thiên tử, thế thiên hành hoá, đại thiên hành hoá là một việc hết sức tự nhiên.

Triết học lịch sử của Nguyễn Trãi thật minh bạch: Nhân nghĩa là đạo người mà cũng là đạo trời. Có nhân nghĩa sẽ được người, trời ủng hộ, sẽ thành công. Bất nhân bất nghĩa sẽ thất bại. Phải chăng còn có một thông điệp ngầm ẩn nào đó gửi gắm cho chính Lê Lợi hay những bậc trị vì của các triều đại sau đó hãy nhớ đến bài học lịch sử quan trọng này?

Nói đến tinh thần yêu đất nước và bảo vệ đất nước rất bao la và rộng lớn, nhưng không phải chỉ một người hoặc một nhóm người nào đó mà làm cho đất nước này giàu đẹp và hòa bình được. Mà cần phải chung tay xây đắp, mỗi người đóng góp một công sức, một khía cạnh nào đó bằng cả cái tâm của mình. Để không thẹn với Người dựng nước và Người giữ nước.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyen
1 tháng 3 2020 lúc 10:04

Đề 4:

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về thể phú: Là thể văn cổ của Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ sớm, đến thời Trần trở nên phổ biến

- Khái quát vị trí của tác phẩm: Bạch Đằng Giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam

II. Thân bài

1. Đặc trưng nghệ thuật của thể phú.

- Là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi

- Dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời.

- Bố cục gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận, đoạn kết.

- Phú cổ thể: Không nhất thiết có đối, cuối bài được kết lại bằng thơ.

2. Sự thể hiện những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm “Bạch Đằng giang phú.

a. Cấu tứ, bố cục

- Về cấu tứ: Đơn giản, chặt chẽ theo lối kể chuyện chủ - khách tiêu biểu của thể loại phú.

+ Ban đầu là lời dẫn chuyện của tác giả để dẫn dắt ta đi theo hành trình ngao du của khách và cuối cùng dừng chân tại sông Bạch Đằng, khách nói về những điều mình quan sát, suy nghĩ về con sông.

+ Tại đây khách gặp các vị bô lão, được họ kể về những chiến công hiển hách trên dòng Bạch Đằng thuở xưa.

+ Hai bền cùng trò chuyện và bình luận về những chiến công.

- Bố cục mang đặc trưng tiêu biểu của bài phú cổ thể gồm 4 phần:

+ Mở đầu: Cảm xúc của nhân vật Khách trước sông Bạch Đằng

+ Giải thích: Những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão.

+ Bình luận: Nhận xét, đánh giá của cha ông về những chiến công

+ Kết: Suy ngẫm về sự hưng vong của đất nước.

b. Hình thức câu văn.

- Có sự đan xen đa dạng, linh hoạt giữa lời văn của người dẫn chuyện, lời nói của Khách, lời kể của các bô lão. Khi thì luân phiên lượt lời uyển chuyển, lúc lại đan xen lời của các nhân vật.

- Sử dụng các câu văn xen lẫn văn vần và văn xuôi đa dạng, sinh động.

+ Các câu văn vần:

“Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/Nơi có người đi đâu mà chẳng biết”

“Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều/Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều”....

+ Các câu văn xuôi: “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã/Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Tháo”....

- Sử dụng các câu văn ngắn dài khác nhau

- Sử dụng lối văn biền ngẫu, tạo nên cách nói hình tượng hóa

“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”,...

- Kết thúc bài phú là một bài thơ, tiêu biểu cho đặc trưng thể phú.

c. Ngôn ngữ.

- Ngôn ngữ tự nhiên không khoa trương sáo rỗng mà rất sống động.

+ Khách miêu tả về con sông Bạch Đằng không bằng những ngôn ngữ sáo mòn mà bằng những hình ảnh cụ thể, sống động để nói về những nét vẽ cụ thể của dòng sông: hùng vĩ, thơ mộng nhưng đìu hiu, hoang lạnh

+ Các bô lão kể về những chiên công nhưng không bị gò vào những ngôn ngữ đao to búa lớn mà vẫn thể hiện được những chiến công hào hùng, oanh liệt

- Ngôn ngữ trang trọng, gợi sự trang nghiêm

d. Xây dựng các hình tượng nghệ thuật độc đáo.

- Hình tượng con sông Bạch Đằng vừa mang vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật vừa là chứng nhân của lịch sử.

- Hình tượng “khách”: Khách trong thể phú thường mang tính ước lệ khuôn thức, cứng nhắc, nhưng qua cách xây dựng của Trương Hán Siêu, hình tượng khách hiện lên đa dạng, sinh động vừa phóng khoáng, tự do, yêu vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của non sông, tiếc thương, xót xa cho cảnh hoang tàn, đổ nát, tự hào về những chiến công lịch sử, yêu thiên nhiên, yêu đất nước.

- Hình tượng các bô lão: Trọng tình, hiếu khách, yêu và tự hào sâu sắc về những chiến công của dân tộc, biết đánh giá và nhìn nhận đúng đắn về lịch sử

III. Kết bài

- Khái quát lại những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng.

- Khẳng định vị trí của tác phẩm: Sau Phú sông Bạch Đằng cũng còn nhiều tác phẩm viết theo thể phú khác nhưng chưa có tác phẩm nào vượt qua được bài phú của Trương Hán Siêu.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyen
1 tháng 3 2020 lúc 10:04

Đề 2:

Thời trẻ, từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, Trương Hán Siêu sinh năm nào chưa rõ. Có tài liệu ước đoán Trương sinh năm 1275. Chỉ biết rằng ông từng phục vụ cả 5 đời vua Trần, và chính thức làm quan ở 4 đời vua, từ Trần Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông đến Dụ Tông, tới chức Tham tri chính sự (1351, đời Trần Dụ Tông). Khi mất (1354), Trương được truy tặng Thái Bảo, năm sau lại truy tặng Thái Phó. Quê huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên, nay là thành phố Ninh Bình, Trương Hán Siêu (tên chữ là Thăng Phủ) là một trí thức kiến văn thâm hậu, tính tình cương trực, được vua và triều đình nể trọng, sau khi mất, lại được phối thờ ở Văn Miếu Thăng Long (1372). Đó là một vinh dự ít người có được. Sáng tác của Trương Hán Siêu hiện còn khoảng 80 bài thơ, và một số bài văn, mà Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm đặc sắc nhất của ông, cũng là một áng “thiên cổ hùng văn” rực rỡ của nền văn chương nước nhà.

BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ (Phú sông Bạch Đằng) được Trương Hán Siêu viết vào thời điểm nào, chưa rõ. Nhưng có ý kiến cho rằng Phú sông Bạch Đằng có thể ra đời vào khoảng 50 năm sau chiến thắng Bạch Đằng. Căn cứ vào tình ý của bài phú, nhất là câu Đến bên sông chừ hổ mặt / Nhớ người xưa chừ lệ chan (Hoài cổ nhân hề vẫn thế / Lâm giang lưu hề hậu nhan), chúng tôi ước đoán Bạch Đằng giang phú có thể được Trương Hán Siêu viết ở thời Trần Dụ Tông, khi mà chính sự triều Trần đang ở thời kỳ ảm đạm, suy vong. Một đại thần trọng trách lớn, địa vị cao, công lao nhiều, trải mấy đời vua Trần, mà không có cách gì làm cho triều chính trở lại quang minh, nên Trương Hán Siêu cảm thấy hổ thẹn, hổ mặt (hậu nhan) với người xưa, nhất là trước Bạch Đằng lịch sử, âm hưởng hào hùng như vẫn còn sục sôi cuộn chảy…

Về nhân vật “khách chơi sông”, thường thì đó chính là tác giả, cũng chỉ là một cách làm văn thông thường. Còn như các cụ bô lão, theo tôi, cũng chỉ là một cách thể hiện hình ảnh tác giả, như một cái “mẹo” phân thân, để bài văn thêm sinh động mà thôi. Chữ “hề”, chuyển ngữ sang tiếng ta là “chừ”, chỉ là chữ đệm (hư từ), có nguồn gốc từ Sở từ (một thể từ của nước Sở). Khuất Nguyên, nhà thơ vĩ đại của nước Sở thời Chiến quốc, đã dùng điệu Sở từ để viết tác phẩm Ly Tao bất hủ…

Mở đầu nói cái thú ham chơi, ham thăm thú các danh lam thắng cảnh. Tác giả nói rằng có một người khách ham chơi lắm, cứ Giương buồm giong gió chơi vơi / Lướt bể chơi trăng mải miết. Buổi sớm còn gõ thuyền ở Nguyên Tương, ấy thế mà buổi chiều đã thấy vị khách ấy đang lần thăm Vũ Huyệt…Nhiều lắm, kể sao cho xiết, như Cửu Giang, Ngũ Hồ, rồi cả Tam Ngô, Bách Việt…Để kết luận cái ý đi nhiều, thăm thú nhiều, chỉ có thể tóm gọn vào một câu: Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết !...

Đấy chính là những địa danh thuộc phía nam Trung Quốc bây giờ. Nhưng đấy cũng chính là những địa danh của các dân tộc thuộc Bách Việt xưa, từ phía nam sông Dương Tử trở xuống, sau bị người Tần, Hán…dần dà nuốt mất, rồi đồng hóa thành người Trung Quốc cả. Chả biết Trương Hán Siêu có ẩn ý gì không, khi kể ra những địa danh của người Bách Việt xưa. Lịch sử vốn đỏng đảnh và nhiều điều trớ trêu, khiến người đời sau đôi khi phải gượng cười chua xót. Có thể Trương Hán Siêu vừa có ý trang điểm cho nhan sắc văn chương, nhưng cũng không loại trừ ẩn ý sâu xa của tác giả. Chung quy, chỉ là nói cái sự đi nhiều, chiêm bái nhiều những danh lam thắng cảnh ở mấy tỉnh ngoài biên giới phía bắc nước ta ngày nay, để làm điểm tựa mà nhấn vào cái nơi quan trọng nhất, ấy chính là địa danh lịch sử Bạch Đằng…Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều / Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết! Khẳng định rằng đã đi nhiều, cho dù, phần nhiều chỉ có thể là chu du trong sách vở, chứa chất trong dạ, trong bụng mà thôi ! Tác giả nói rằng ông đã học cái cái thú ham đi ham chơi ấy ở Tử Trường, tức Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng ở Trung Quốc thời Hán, tác giả bộ Sử Ký Tư Mã Thiên bất hủ…

Thế là nói từ xa đến gần, từ rộng về hẹp, để tập trung vào tiêu điểm quan trọng nhất: Sông Bạch Đằng !

Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều, đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Và đây, dòng sông lịch sử mở ra trước mắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu / nước trời: Một sắc, phong cảnh: Ba thu…Thật là cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ. Sóng nước Bạch Đằng cuồn cuộn như muôn dặm cá kình đang quẫy đạp. Muôn thuyền buồm ngược xuôi như đuôi chim trĩ. Có ý kiến giải thích rằng đuôi chim trĩ có hình bánh lái thuyền, để chỉ thuyền, nhưng tôi cho rằng tác giả có ý ví những cánh buồm nâu của những con thuyền thướt tha như đuôi chim trĩ qua lại ngược xuôi, vì đây là quan sát từ xa, trong toàn cảnh không gian một vùng cửa sông rộng lớn, nước và trời như trộn vào nhau một sắc xanh ngắt, ở vào thời điểm tháng cuối của mùa thu (ba thu). Vả chăng, làm sao mà nhìn thấy bánh lái con thuyền ở dưới nước, để biết nó “thướt tha” được? Hình ảnh thướt tha đuôi trĩ, vì thế chỉ có thể là những cánh buồm đảo qua đảo lại, mới có thể quan sát thấy mà thôi !

Và đây là cảnh ở gần hơn và tâm sự của tác giả:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu,

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu,

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá ?

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu…

Hình dung như thấy một ông lão đang đứng một mình bên sông, nhìn cảnh mà sinh tình. Nếu như ở trên là cảnh ở tầm khái quát, rộng lớn (vĩ mô) và hào tráng, thì đây là cảnh ở gần, ở ngay trước mắt (vi mô). Tình ở trên là cảm xúc phơi phới tươi vui, thì ở đây là những xúc cảm bùi ngùi, nặng trĩu suy tư của người đã từng trải qua những năm tháng đầy máu lửa của chiến tranh tàn khốc. Chỉ thấy bờ lau san sát với bến nước đìu hiu mà tưởng tượng ra cảnh những ngọn giáo gãy còn ngổn ngang chìm dưới đáy sông sâu (chiết kích trầm giang) và nhấp nhô những gò đống chứa đầy xương khô của những chiến binh bỏ mình nơi đây, mà buồn cho cảnh thảm, rồi thương nỗi anh hùng đâu vắng tá ? Muôn lớp anh hùng một đi không trở lại, mà quá vãng thì vẫn còn lưu dấu ở nơi đây, khiến cho tấc lòng người ngắm sông khuấy lên bao nỗi cảm hoài.

Trọng tâm của bài phú về sông Bạch Đằng, đương nhiên không chỉ dừng lại ở những cảm xúc hoài cổ bi thiết, mà ở chính sự ngợi ca những chiến công ở khúc sông này, trong lịch sử chống ngoại xâm và đặc biệt là ở đời Trần. Qua lời kể của các bô lão với tác giả (khách), thủ pháp nghệ thuật này tỏ ra hiệu quả hơn, bởi sự khách quan, bởi sự sống động lung linh huyền sử, quá vãng sẫm màu và hiện tại mênh mang của câu chuyện. Những tháng năm oanh liệt chống giặc phương Bắc của người Đại Việt ta, cứ hiện dần lên rõ nét và hấp dẫn vô cùng. Rằng:

Đây là chiến địa buổi Trung Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao…

Trùng Hưng là niên hiệu ở đời Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Tác giả đề cao hai vua Trần (Nhị thánh), theo quan điểm nho gia, điều ấy chẳng có gì lạ. Nhưng trước đó, cũng ở chính nơi đây, Ngô Vương Quyền (Ngô chúa) cũng đã từng tiêu diệt quân Nam Hán, giết chết tướng giặc Hoằng Thao, năm 938. Một sự kiện lặp lại trong lịch sử, không hề là ngẫu nhiên, bởi sau Ngô Quyền, đại tướng quân Phạm Cự Lạng (con trai đại thần Phạm Hạp đã bị Lê Hoàn giết sau cuộc đảo chính Đinh Tiên Hoàng) của vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) cũng từng tiêu diệt quân Tống xâm lược, ở chính nơi đây. Thế là trời sinh ra đất hiểm này, dành làm chỗ vùi thây quân xâm lược phương Bắc. Kẻ xâm lược không chịu rút ra bài học của tiền nhân, để chuốc lấy mối nhục muôn đời không rửa nổi...

Và đây là trận đánh giặc Nguyên Mông trên quãng sông này, qua lời kể của các bô lão:

“Đương khi ấy: Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới / Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói / Trận đánh được thua chửa phân / Chiến lũy bắc nam chống đối”…

Đó chính là những hình ảnh được dựng lên ở tầm khái quát, toàn cảnh, giữa địch và ta. Đây là trận đánh có ý nghĩa chiến lược, quyết chiến để giành toàn thắng với ta. Còn với kẻ thù, do đó cũng là trận đánh quyết định số phận của chúng, nên tính chất ác liệt càng dữ dội, không thể khác. Cả hai bên đều dốc hết toàn lực, khí thế ngất trời, cả sáu quân, cả thuyền bè muôn đội, giáo gươm sáng chói, rồi tinh kỳ phấp phới, mà trận đánh vẫn còn đang ở giai đoạn giằng co, càng lúc càng cam go quyết liệt. Dựng cảnh chiến trường ở tầm khái quát, tác giả dùng những hình dung từ, tính từ chỉ màu sắc…Nhưng để tả tính chất quyết liệt của trận đánh, tác giả sử dụng những động từ mạnh, liên tiếp, và nhất là thủ pháp khoa trương để tả sự dữ dội, khốc liệt của chiến trường, đến như Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ / Bầu trời đất chừ sắp đổi! Khí thế của chiến trường, cùng với khói lửa ngút trời bốc lên cao mãi, che lấp cả mặt trời mặt trăng (nhật nguyệt), khiến cho bầu trời đất dường như muốn đổi sắc. Thật là một đoạn văn tuyệt kỹ, hừng hực hào khi Đông A, thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Đại Việt, từ xưa, cũng chưa từng có bao giờ. Đời Hậu Lê, Nguyễn Trãi cũng một lần nữa thành công với ngòi bút thiên tài của mình, khi ông viết Bình Ngô đại cáo, tái hiện những trận đánh quyết liệt của quân ta với giặc Minh xâm lược.

Tiếp đó là những lời bình luận về ta và địch, về sự thắng sự thua, trong lịch sử và trong thời đại nhà Trần. Về những tiền lệ, ngay đối với lịch sử của đối phương, thì đây: Thế quân mạnh mẽ như Hốt Tất liệt, thừa hưởng từ tiền bối của chúng là Thành Cát Tư Hãn, vó ngựa từng dẫm nát cả châu Âu và vùng Tiểu Á cổ kính, rồi tiến xuống phương nam quật ngã Trung Hoa khổng lồ, không dân tộc nào ngăn được ý chí muốn nuốt chửng thế giới của chúng. Còn vua Nam Hán Lưu Cung cũng nhiều tham vọng và thủ đoạn như vậy. Bọn chúng Những tưởng gieo roi một lần, có thể quét sạch Nam bang bốn cõi! Chúng huyênh hoang, tự đắc, khinh địch và mắc chứng hoang tưởng. Thế nhưng: Trời chẳng chiều người ! Chúng vô phúc khi phải đối đầu với một dân tộc tuy nhỏ bé mà kiên cường bất khuất, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của vua quan nhà Trần, đã từng hai lần ôm đầu máu chạy dài, thế mà vẫn không chịu rút ra bài học ngu xuẩn của sự hoang tưởng, nên hung đồ hết lối, phải ấm ức chết chìm dưới dưới sóng nước Bạch Đằng lịch sử…Rồi so sánh trận Bạch Đằng với trận Xích Bích ở thời Tam quốc, Chu Du dùng kể hỏa công của Khổng Minh, đánh tan 80 vạn quân Tào Tháo. Chưa hết, lại còn so sánh nữa, như trận Hợp Phì, một huyện thuộc tỉnh An Huy, nơi sông Hoài hợp với sông Phì, Tạ Huyền đánh tan trăm vạn quân Bồ Kiên ở đó. Thế nên:

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!

Dòng sông Bạch Đằng vẫn thản nhiên chảy mãi, mà Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Giang Văn Minh), mà nhục quân thù khôn rửa nổi ! Vậy là Tái tạo công lao, quân dân Đại Việt một lần nữa lại lập chiến công bất hủ trên dòng sông này, nghìn xưa ca ngợi !

Đó là những lời bình luận tâm huyết của tác giả về ý nghĩa của những chiến công trên sóng nước Bạch Đằng, nhất là chiến công hiển hách mới đây của quân dân đời Trần. Còn đây là những lời bình luận về nguyên nhân thành bại:

Thứ nhất là địa linh, trời đất cho ta nơi hiểm trở. Dòng sông Bạch Đằng chảy xiết, núi dựng bên sông như giáo mác, chính là nơi có thể vùi thây quân địch, cho dù chúng hung hãn và thiện chiến đến đâu chăng nữa. Thứ hai là nhân kiệt. Đời Trần, các vua Trần như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, đều là những vị vua anh hùng. Lại thêm những tướng lĩnh kiệt hiệt, như Đại Vương Trần Hưng Đạo, vị tổng tư lệnh thiên tài, rồi Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, cùng rất nhiều những anh hùng hữu danh và vô danh khác, lãnh đạo, chỉ huy quân dân làm nên những chiến công lừng lẫy. Hình như là chưa đủ, tác giả còn so sánh cuộc hội quân của Tiết chế Trần Hưng Đạo diễn ra ở bến Bình Than dưới triều Trần, với hội Mạnh Tân ở đời nhà Chu, khi Lã Vọng (Khương Tử Nha) giúp Chu Vũ Vương hội quân ở đây, diệt tên bạo chúa là Trụ. Rồi Trận Duy Thủy, đời Hán Cao Tổ Lưu Bang, danh tướng Hàn Tín dùng kế tháo nước đánh bại quân Tề. So sánh như thế, để thấy rõ tài năng kiệt xuất của tướng lĩnh nhà Trần, chẳng những giỏi về chiến trận, mà còn giỏi cả mưu lược. Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng / Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn ! Đại Vương đây là Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Tiết chế toàn quân, có tầm nhìn chiến lược thật kỳ diệu. Giặc Nguyên Mông kéo sang lần thứ ba, quyết trả thù cho hai lần đại bại trước đó, vào các năm 1258, 1285. Thế giặc lần này rất mạnh và hung hãn. Vua Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo Vương: “Giặc đến thì làm thế nào ?”, Hưng Đạo Vương nói: “Thế giặc năm nay dễ phá”! Thế là Đại Vương đã nắm chắc phần thắng trong tay, chỉ còn chờ thời cơ tiêu diệt chúng. Thực tế đã diễn ra đúng như nhận định của vị thống soái thiên tài. Tác giả đã phải thốt lên: Kìa trận bạch Đằng mà đại thắng / Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn ! Và khẳng định: Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn !

Dân gian có câu: Trăm năm bia đá cũng mòn / Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ ! Câu văn của Trương Thái Bảo tạo dựng một thế đối lập về nội hàm, đối xứng về hình thức. Với quân dân nhà Trần, thì tiếng thơm còn mãi, bất tử cùng thời gian. Với kẻ thù thì nỗi nhục thua trận cùng lời chê bai của hậu thế, bia miệng không mòn, không bao giờ rửa sạch ! Thật là chí lý và khách quan !

Có thể nói không ngoa rằng Trương Hán Siêu đã tái hiện một chiến công hiển hách của quân dân nhà Trần bằng một đoạn văn thật hào sảng, rất tiêu biểu cho âm hưởng thơ văn đời Lý Trần. Hình ảnh một dân tộc bất khuất, không cam tâm làm nô lệ, bừng lên sáng chói ở đoạn văn này. Vua Trần Minh Tông sau đó viết rất hay về sông Bạch Đằng qua bài thơ Bạch Đằng Giang của ông. Một số tác giả khác như Nguyễn Sưởng, với bài thơ Bạch Đằng giang, Nguyễn Trãi, với bài thơ Bạch Đằng hải khẩu, rồi Vũ Mộng Nguyên với Hậu Bạch Đằng giang phú, cũng viết rất hay về Bạch Đằng, nhưng bài phú của Trương Hán Siêu mới là tác phẩm thể hiện được đầy đủ nhất, sinh động nhất những tinh túy của nghệ thuật văn chương khi viết về chiến công trên sông Bạch Đằng. Bởi tài hoa chăng ? Bởi tác giả là người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến chiến công này, khi còn làm trợ thủ cho Hưng Đạo Vương chăng ? Hay bởi sự thăng hoa của cảm xúc thiên phú cùng sự linh ứng của tổ tiên ngầm giúp rập chăng ?

Đoạn cuối của bài phú, đột nhiên âm hưởng chuyển sang một cung bậc khác, trầm lắng suy tư chiêm nghiệm:

Khách chơi sông chừ hổ mặt,

Người hoài cổ chừ lệ chan.

Câu văn “biền ngẫu” ( hai con ngựa sóng đôi) về hình thức, nhưng tình ý chỉ là một. Khách chơi sông, với người hoài cổ, chẳng phải là tác giả bài phú này hay sao ? Một người từng trải mấy đời vua Trần, từ thời hưng thịnh đến suy vong, nhìn cảnh mà trông về quá khứ xa xôi đẹp đẽ, lại chợt nghĩ đến trách nhiệm của mình, giờ đây, cảm thấy hổ thẹn, hổ mặt với tiền nhân, với những anh hùng chiến sĩ đã hy sinh anh dũng ở đây. Đó là một sự hổ mặt của kẻ còn có nhân cách, còn có thiên lương, liêm sỉ, chân thành mà xúc động. Bởi thế, nên người hoài cổ chừ lệ chan, cũng là một điều phải lẽ…

Rồi vừa đi vừa ca rằng:

Sông Bạch Đằng vẫn còn đây, luồng to sóng lớn dồn về bể Đông. Những người bất nghĩa tiêu vong, chỉ còn mãi lưu danh những anh hùng hy sinh vì nước. Đó chính là sự công minh của lịch sử. Rồi ca ngợi các vua Trần, Thánh Tông và Nhân Tông, ca ngợi dòng sông Bạch Đằng mãi đi cùng lịch sử hào hùng của dân tộc. Kết luận, tác giả viết:

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao !

Chiến thắng Bạch Đằng quyết định thắng lợi cuộc chiến tranh chống giặc Nguyên Mông lần thứ ba này, đương nhiên có nhiều yếu tố hợp thành. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh vào chữ “Đức”, Đức cao. Ở đây, Trương Hán Siêu thể hiện một quan điểm hoàn toàn biện chứng. Đức ở đây được xem như là một phạm trù mở, là tài năng chỉ đạo chiến tranh kiệt xuất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, là ý chí của các vua Trần, là sự đoàn kết của tầng lớp lãnh đạo, là quân dân một dạ, là nhiệt tình yêu nước và ý chí quyết chiến quyết thắng của cả dân tộc, là sự giúp đỡ của tổ tiên, cùng sự linh ứng của trời đất…Địa lợi (đất hiểm) đương nhiên là rất quan trọng, nhưng quyết định thắng lợi, tựu chung và tiên quyết, vẫn là ở Đức cao vậy !

Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một tráng ca bất hủ. Âm điệu của bài phú chuyển hóa theo mạch tâm tư, khi thênh thang tiêu sái, khi khắc khoải ngậm ngùi, khi cuộn sôi hào sảng, phơi phới tự hào, lại khi lặng lẽ trầm lắng suy tư. Mạch văn linh hoạt, dài ngắn xa gần, biến ảo thực hư, diễn tả rất thành công sự chuyển đổi sinh động của cảm xúc. Người xưa bảo rằng đây là một áng văn tuyệt kỹ, được xếp vào hàng Thiên cổ hùng văn, quả cũng không ngoa ! Để lại cho đời một áng văn bất hủ, Trương Hán Siêu chẳng phải cũng đã thành bất hủ với trời đất đấy ư ?

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa

Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Thị Hằng
Xem chi tiết
Nguyễn Thư
Xem chi tiết
đỗ ngọc diệp
Xem chi tiết
Nguyễn Khánh Linh
Xem chi tiết
dang nguyen
Xem chi tiết
dang nguyen
Xem chi tiết
Vương Đình Cẩm Tuyết
Xem chi tiết
Hương Trần
Xem chi tiết
MONKEY.D.LUFFY
Xem chi tiết