Chị em Thúy Kiều- Nguyễn Du

Lê Anh Ngọc
Phân tích nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Khánh Ly
24 tháng 10 2019 lúc 20:06

Từ một tác phẩm bình thường của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du, với thiên tài nghệ thuật của mình, đã tạo nên “Truyện Kiều” bất hủ, niềm tự hào của văn học Việt Nam. Trong những đặc sắc về nghệ thuật của Nguyễn Du, có nghệ thuật tả người. Đoạn Nguyễn Du tả tài sắc chị em Thúy Kiều có thể được coi là một đoạn thơ tiêu biểu của nghệ thuật ấy.

Chỗ tài tình của Nguyễn Du là, khi ông tả người, tả vẻ ngoài của con người nhưng chính là ông tả bản chất con người với những đặc sắc bên trong của nó và dự báo cả số phận mai sau của họ. Tả chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du bắt đầu từ cái rất chung, giới thiệu những nét chung nhất của họ:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân,

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Cả hai chị em, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đẹp, cái đẹp trọn vẹn của vẻ đẹp theo lí tưởng của xã hội và thời đại. Họ mang cái cốt cách thanh cao của cây mai và cái tinh thần trắng trong của tuyêt. Tuy thế, dẫu “mười phân vẹn mười”, cái đẹp của hai chị em vẫn là “mỗi người một vẻ”. Chính nhà thơ đã chuẩn bị miêu tả riêng, so sánh và phân biệt cho ra “mỗi người một vẻ” ấy. Nhà thơ bắt đầu từ Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mấy thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Qua đoạn trên, ta không thể biết được một cách tỉ mỉ, cụ thể về nhan sắc Thúy Vân nhưng ta lại biết được nhan sắc ấy thật tuyệt trần. Tất cả đều trọn vẹn, tất cả đều đạt tới mức cao nhất yêu cầu của xã hội về nhan sắc. Đó là một vẻ đẹp mà với những từ “trang trọng”, “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”, “mây thua”, “tuyết nhường”, luôn luôn tạo cho người xung quanh một tình cảm trân trọng, yêu mến, độ lượng. Đó là một vẻ đẹp dễ dàng được xa hội công nhận.

Tả Thúy Vân chỉ bốn dòng thế là đủ, Nguyễn Du chuyển sang tả Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn:

Làm thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Hóa ra, khi tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã bắt đầu tả Thúy Kiều, Thúy Vân trở thành điểm tựa để Nguyễn Du đặt đòn bẩy mà nâng Thúy Kiều lên chỗ tuyệt vời. Kiều có tất cả những gì Thúy Vân có nhưng ở mức độ sắc sảo hơn, mặn mà hơn. Tả Thúy Vân, nhà thơ chỉ nói đến sắc. Thúy Kiều thì “tài sắc”, và cả “tài” lẫn “sắc” đều “lại là phần hơn”.

Tả Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng dùng phương pháp ước lệ, với những thành ngữ quen thuộc “làn thu thuỷ” để chỉ đôi mắt, “nét xuân sơn” để chỉ đôi lông mày; tuy thế với nhưng từ ngữ “ghen”, “hờn” gắn cho tạo vật, nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều là nhan sắc độc đáo, kì lạ, vượt lên trên sự bình thường. Đó là nhan sắc hiếm có trên đời, như một của quý ít khi xuất hiện, thường được tôn sùng và cũng thường bị đố kị, lúc nào cũng gây ra sóng gió cho mình.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài dành họa hai.

Đã giới thiệu tài sắc hơn đời của Thúy Kiều, đã tả sắc của nàng như thế, Nguyễn Du tiếp tục bằng việc tả tài của nàng:

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm,

Cung thương, lầu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương,

Khúc nhà tay tựa nên chương

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Tài của Kiều là cái tài toàn diện của nghề phong lưu: cầm, kì, thi, họa, mà tài nào cũng ở mức tuyệt đỉnh, trọn vẹn. sắc đã hiếm có, tài lại hiếm có hơn. Thúy Kiều đúng là người hiếm ở đời. Người hiếm có như thế thì có thể gặp tột cùng hanh phúc, hoặc có thể tột cùng đau khổ. Mà Kiều thì chắc là sẽ đau khổ bởi vì “hoa ghen” với nàng, “liễu hờn” với nàng kia mà! Tả tài sắc Thúy Kiều, thật ra Nguyễn Du đã dự báo cho thân phận của nàng.

Thúy Kiều và Thúy Vân đúng là “mười phân vẹn người” nhưng lại “mỗi người một vẻ”. Đảo lộn trình tự, nói về em trước rồi mới nói đến chị, Nguyễn Du đã tập trung vào nhân vật chính của tác phẩm. Không đi vào chi tiết, Nguyễn Du chỉ nói lên cái thần của nhân vật bằng những nét tiêu biểu nhất, đó chính là điều đặc sắc trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Khánh Ly
24 tháng 10 2019 lúc 20:07

Nếu như ai đã từng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, có lẽ đều tâm phục nghệ thuật dẫn truyện tài tình, cách sử dụng ngôn ngữ bác học và bình dân một cách linh hoạt, điêu luyện và đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật thật độc đáo và gần với đời sống. Nói về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý kiến cho rằng: "Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc khắc hoạ nhân vật. Nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài, với ông, tả ngoại hình là để giúp cho người đọc hình dung rõ hơn bản chất, tính cách bên trong của nhân vật".

Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật của mình tập trung ở hai dạng chính theo quan điểm truyền thống là : nhân vật phản diện và nhân vật chính diện. Nếu ở nhân vật chính diện, tác giả thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, xây dựng nhân theo lối lí tưởng hoá thì ở nhân vật phản diện, tác giả thường sử dụng bút pháp tả thực để khắc hoạ. Dù miêu tả nhân vật ở khía cạnh nào, thì ngòi bút của ông cũng đạt đến trình độ bậc thầy về ngôn ngữ, bởi nhân vật hiện lên rất sống động và chân thực.

Về nhân vật chính diện, khi miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ, hình ảnh ảnh dụ tượng trưng, thủ pháp tiểu đối để gợi tả vẻ đẹp chung của hai nàng. Hai nàng có dáng vẻ mảnh mai thanh tao như cây mai "Mai cốt cách", tâm hồn trong trắng, ngây thơ như tuyết "Tuyết tinh thần". Vẻ đẹp của hai nàng đã đạt đến độ tròn trịa, hoàn mĩ "mười phân vẹn mười". Nhưng mỗi người lại mang một nét đẹp riêng không giống nhau là "mỗi người một vẻ". Chân dung Thuý Vân được nhà văn Nguyễn Du miêu tả là một người con gái có vẻ đẹp hài hoà, cân đối :

"Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da."

Hai chữ "trang trọng" nói nên vẻ đẹp cao sang, quý phái khác thường của nàng. Vẻ đẹp trong sáng, quý phái ấy được Nguyễn Du so sánh với những hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. Nàng có khuôn mặt dầy đặn, tròn trịa như mặt trăng, đôi lông mày sắc nét, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, làn da trắng mịn hơn tuyết, mái tóc óng ả hơn mây. Nàng mang một vẻ đẹp trong sáng, phúc hậu, hài hoà khiến thiên nhiên phải "nhường", "thua". Qua đó, nhà thơ Nguyễn Du đã khắc hoạ bức chân dung của Thuý Vân gợi lên một tương lai tươi sáng, bình yên, hạnh phúc.

Vẫn với bút pháp ước lệ, tượng trưng tả vẻ đẹp của Thuý Kiều tác giả lại chỉ miêu tả một cách khái quát mà không đi vào chi, khi miêu tiết như Thuý Vân. Nhà thơ chủ yếu đặc tả đôi mắt của nàng. Bởi đôi mắt vốn dĩ được coi là cửa sổ của tâm hồn, qua đôi mắt, những vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ của Thuý Kiểu được thể hiện một cách đặc biệt.

"Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"

Thuý Kiều được miêu tả có đôi mắt long lanh, trong sáng, linh hoạt như nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân khiến vẻ đẹp của nàng khiến thế gian phải "nghiêng nước nghiêng thành". Vẻ đẹp của nàng khiến thiên phải đố kị, hờn ghen. Với cách tả ấy, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung của nàng Kiều đẹp như tranh hoạ, vẻ đẹp sắc sảo, rạng rỡ, đài các, kiêu sa nhưng qua đó cũng dự báo về một kiếp hồng nhan truân chuyên, đầy trắc trở, chông gai.

Khi miêu tả chàng Kim Trọng, tác giả lại dùng những đài từ uyên bác để diễn tả xuất thân quyền quý, sự hào hoa phong nhã của nhân vật :

Nguyên người quanh quất đâu xa

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh

Nền phú hậu bậc tài danh

Văn chương nết đất thông minh tính trời

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong nho nhã ra vào hào hoa

Còn đối với Từ Hải, bậc anh hùng trượng nghĩa, tác giả đã mượn những hình ảnh "Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", để lột tả những đường nét cường tráng, thần thái uy dũng của một trang hảo hán.

Ngược lại đối với những nhân vật phản diện như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, tác giả lại dùng những ngôn từ rất bình dân những đã lột tả bản chất thủ đoạn, ranh ma của nhân vật. Với Mã Giám Sinh đôi dòng giới thiệu :

"Hỏi tên rằng: "Mã Giám Sinh''

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần.

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao"

tác giả đã lột tả bản chất đều giả, một con người có cách cư xử vô học. Mặc dù đã "trạc ngoại tứ tuần" nhưng dung mạo lại "nhẵn nhụi, bảnh bao" cho thấy tính cách trải chuốt, ăn diện quá mức của y. Bản chất của một con buôn cũng được thể hiện rõ qua cách "Cò kè bớt một thêm hai" cho thấy y là một kẻ rất thủ đoạn, xảo trá và kệch cỡm. Với nhân vật Sở Khanh, một kẻ "bạc tình nổi tiếng lầu xanh", tác giả dựng lên hình ảnh của một kẻ "Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng" để đi quyến rũ những "cành phù dung". Khi miêu tả nhân vật Tú Bà, cái hình dáng quá khổ "đẫy đà" qua màu da "nhờn nhợt" đã tố cáo cái nghề buôn bán, kinh doanh trên thân xác của người phụ nữ, khiến người ta mới đọc và hình dung qua một chút thôi cũng đã đủ thấy để ghê tởm. Không những thế mụ còn độc ác, nanh nọc, đanh đá, khi đay nghiến "Phải làm cho biết phép tao" và sấn sổ và đánh Kiều khiến cho người ta phải kinh hãi. Có thể thấy, đối với những nhân vật phản diện, cách sử dụng ngôn từ bình dân tác giả đã khiến nhân vật phải bộc lộ rõ bản chất của mình.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều không chỉ được tác giả khắc hoạ qua việc miêu tả chân dung bên ngoài, mà thành công hơn cả chính là việc miêu tả thế giới nội tâm nhân vật vô cùng phong phú, tinh tế, làm cho nhân vật có đời sống riêng, có sức sống riêng. Trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" qua việc miêu tả cảnh ngộ cô đơn buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết, tác giả đã khắc hoạ sâu sắc tấm lòng chung thuỷ, hiếu thảo và vị tha của nàng. Qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, nỗi lòng đau đáu về lương duyên với chàng Kim chẳng khi nào nguôi ngoai :

"Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

Hay khi miêu tả tính cách của Hoạn Thư, tác giả chẳng ngại ngần mà thể hiện rõ thái độ của mình :

Ở ăn thi nết cũng hay

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già

Bước từ trang thơ qua đến đời thực, hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du còn rất nhiều, nhưng có lẽ chỉ qua vài nét phác hoạ về nhân vật chính diện và nhân vật phản diện bằng ngôn từ điêu luyện, tài năng của Nguyễn Du đã được nhân loại khẳng định là bậc "đại thi hào". Nhà phê bình Hoài Thanh đã phải rất tâm đắc khi viết nên những lời nhận xét sau "Nguyễn Du đã tái tạo lại một cuộc sống đương thời và sáng tạo ra một thế giới có thật. Trong thế giới ấy có những con người rất sống, rất thật khiến nhiều khi người ta không còn nhớ đó là những con người trong tiểu thuyết".

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
minh nguyet
24 tháng 10 2019 lúc 20:12

Tham khảo:

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc , là một nhà nhân đạo chủ nghĩa. “Truyện Kiều” của ông là viên ngọc sáng ngời trong kho tàng văn học nước nhà. Gía trị của tác phẩm này không chỉ ở nội dung hiện thực, tư tưởng nhân đạo mà còn ở nghệ thuật đặc sắc của một cây bút tài hoa bậc thầy. Một trong yếu tố làm nên nghệ thuật tả người của Nguyễn Du . Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” có thể coi là đoạn thơ tiêu biểu cho nghệ thuật ấy. Nét nổi bật trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du là ông đã vận dụng biện pháp ước lệ tượng trưng một cách tài tình, đầy sáng tạo, khiến nhân vật hiện lên thật đậm nét, sinh động có hồn.

Truyện Kiều được sáng tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) . Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh Thúy Kiều.

Đối với mỗi nhân vật trong truyện “Truyện Kiều” Nguyễn Du đều có lời giới thiệu khái quát chung. Tả chị em Thúy Kiều, ông cũng bắt đầu từ cái rất chung, giới thiệu những nét chung rất hay của họ:

“Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.”

Theo quan niệm thẫm mũ phong kiến, có tính chất lí tưởng hóa, thì cái “tốt” phải đi liền cái “đẹp”. Nhân vật đã tốt về đức hạnh thì dứt khoát phải đẹp về hình thức. Do vậy, cả hai chị em Kiều đều đẹp, cái đẹp từ dáng vẻ bên ngoài đến tâm hồn, phẩm cách bên trong. Tác giả dùng hình ảnh mang tính chất tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Đó là lấy cái đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên (mai, tuyết) để so sánh ngầm với nhan sắc của người thiếu nữ: cả hai chị em đều xin đẹp, một vẻ đẹp mang cái dáng vẻ, cốt cách thanh tao của hoa mai và tâm hồn trong trắng của tuyết. Tuy thế, dẫu có đẹp đến độ hoàn mĩ “mười phân vẹn mười” vẫn là “mỗi người một vẻ” . Với câu thơ này nhà thơ đã chuẩn bị để miêu tả riêng, so sánh và phân biệt cho ra cái “mỗi người một vẻ” ấy. Cách chuyển ý thật là tài tình dẫn dắt thơ thật khéo léo.

Để tả từng nhân vật, Tố Như tiên sinh chọn Thúy Vân trước. Ông rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn từ ngữ và hình ảnh để miêu tả. Thúy Vân hiện lên với vẻ ddejp trang trọng, đài cát:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Bút pháp ước lệ thường không cho ta biết một cách cụ thể, tỉ mỉ nhưng lại giúp ta hình dung được cái cực điểm của nhan sắc vì nó mượn những cái đẹp tuyệt vời, vĩnh cửu của thiên nhiên để biểu hiện. Nhan sắc Thúy Vân thật tuyệt trần: Khuôn mặt đẹp và trong sáng như “trăng”, long mày thanh tú như mày “ngài”, miệng cười tươi như “hoa”, tiếng nói trong như “ngọc”, tóc mượt hơn “mây”,da trắng hơn cả “tuyết”. Tất cả đều trọn vẹn, đều đạt đến mức lí tưởng khiến thiên nhiên cũng phải “thua”, phải “nhường”. Tác giả đã khéo kết hợp những từ láy gợi tả “trang trọng”, “đầy đặn”, “nở nang”. Với lối tiểu đối trong câu để khắc họa bức chân dung đoan trang, phúc hậu của Thúy Vân. Và khi nói “khuôn” (trăng) thì nhan sắc của Thúy Vân đã nằm trong “khuôn khổ” mà chế độ phong kiến chấp nhận được. Phải chăng dưới ngòi bút đầy lòng nhân ái của Nguyễn Du, con người với vẻ đẹp ấy ắt hẳn sẽ có cuộc đời êm đềm, bình lặng, chẳng biết sóng gió là gì?

Nguyễn Du tả Thúy Vân trước với dụng ý cốt để làm nề. Đó là một kết cấu sáng tạo theo phép “đòn bẩy” nhằm tôn vinh cái đẹp của Thúy Kiều. Người đọc có cảm tưởng đẹp như Thúy Vân là “tột đỉnh”, nhưng sau đó, đến Thúy Kiều mới thấy là “tuyệt đỉnh nhan sắc”:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn”

Cũng dùng bút pháp ước lệ như đã tả Thúy Vân, nhưng ngòi bút thiên tài của Tố Như không hề lặp lại một cách vụng về như một người thợ tầm thường. ông không tả tỉ mỉ nào khuôn mặt, nụ cười, tiếng nói, mái tóc , làn da mà chỉ phác thảo vài nét cốt nêu bật cái thần thái trong bức chân dung: “làn thu thủy, nét xuân sơn”. Hình ảnh ẩn dụ đó rất ấn tượng và gợi nhiều liên tưởng: từ dung nhan đến tâm hồn Kiều đang ở độ trong veo như nước mùa thu, không chút gợn , đang dạt dào sức sống thanh xuân như màu xanh của dáng núi mùa xuân. Cả vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời như hội tụ ở đây. Cái nhan sắc đến độ “nghiêng nước nghiêng thành” ấy lại kèm theo cái tài “so bề tài sắc lại là phần hơn” nên nó cao quá vượt lên cái khuôn khổ mà xã hội phong kiến có thể chấp nhận được, khiến “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Với Thúy Vân thì thiên nhiên “thua, nhường” vốn chỉ là sự hơn ém không tranh chấp, còn với Kiều thì “ghen , hờn” mới thực sự biểu hiện được cả lòng đố kị sâu cay của tạo hóa. Bởi vậy, tả bức chân dung “sắc sảo mặn mà” của Kiều, Nguyễn Du như dự báo trước tấm bi kịch “hồng nha bạc phận” của nàng sau này, vì ngay từ đầu tác giả đã khẳng định: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Tả Thúy Vân , Nguyễn Du chỉ tả sắc không điểm thêm một chút tài hoa nào. Còn Kiều thì “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, không những tuyệt đỉnh nhan sắc mà còn tuyệt đỉnh tài năng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên “Bạc mệnh”lại càng não nhân”

Theo quan niệm phong kiến thì cái tài của người phụ nữ khuê các là “cầm kì thi họa ca ngâm”, Thúy Kiều gồm đủ. Nàng không những có tư chất thông minh do trời phú mà còn rất mẫu mực tài hoa: tài thơ, tài họa, tài ca ngâm, và đặc biệt alf tài đàn, môn nào cũng giỏi , cũng thành “nghề” cả. Nhà thơ không tiếc lời ca ngợi tài năng của Thúy Kiều bằng hàng loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: “tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, ‘ăn đứt”… Kiều còn có một tâm hồn nhạy cảm và sáng tạo . Dường như nàng linh cảm được số phận bất hạnh của mình nên đã tự sáng tác nên khúc đàn “Bạc mệnh” mà ai nghe cũng “não lòng”. Phải chăng, đó cũng là một dự báo cho cuộc đời nàng về sau, vì “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” và:

“Anh hoa phát tiết ra ngoài

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”

Kết thúc đoạn giới thiệu chân dung Thúy Vân – Thúy Kiều là bốn câu thơ khái quát về cuộc sống phong lưu, yên bình và khuôn phép, mẫu mực của hai cô gái:

“Phong lưu rất mẫu hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Cũng với giọng thơ đề cao, ca ngợi , Nguyễn Du nói về đức hạnh của hai cô gái “ấm cúng”. Tuy đã đến độ tuổi lấy chồng hai cô vẫn sống êm đềm, giữ gìn tư cách đúng đắn, không săn đón, vồ vập một ai, mặc cho các nam nhi như “ong bướm” bay lượn dập dìu bên ngoài tường đông. Bốn câu thơ như một bức tranh sinh hoạt đầm ấm, êm ả của tranh phong lưu hồng quần.

Đoạn thơ chị em Thúy Kiều sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều. Ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh là biểu hiện của cảm hứng nhân văn nơi Nguyễn Du.

Tóm lại, chỉ riêng nghệ thuật miêu tả nhân vật, Nguyễn Du xứng đáng là nghệ sĩ bậc thầy. Dưới ngòi bút tài hoa, điêu luyện của ông, chân dung chị em Kiều hiện lên thật sinh động, đều là “mười phân vẹn mười” nhưng “mỗi người một vẻ”, có diện mạo riêng, tích cách và số phận riêng. Điều đáng quý là tấm lòng ưu ái đặc biệt mà nhà thơ dành cho nhân vật, nhất là Thúy Kiều. Và điều đó càng chứng tỏ tấm lòng nhân đaoọ của Nguyễn Du.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa

Các câu hỏi tương tự
Pikachuuuu
Xem chi tiết
Ngọc Trang
Xem chi tiết
Đỗ Thùy Linh
Xem chi tiết
Anh thư
Xem chi tiết
Ducduy Pha
Xem chi tiết
Rasmie
Xem chi tiết
Trần Tôn Văn
Xem chi tiết
Hoàng Long
Xem chi tiết
Huỳnh Minh Thư
Xem chi tiết