Văn bản ngữ văn 9

Nguyễn Như Quỳnh

Đề: Phân tích hình ảnh người phụ nữ trong các văn bản trung đại đã học.

Giúp mình với tối nay mình phải làm rồi.

momochi
17 tháng 8 2019 lúc 11:13

Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ, đó là người phụ nữ. Họ là Hình tượng tiêu biểu cho những số kiếp bi đát, cho những con người trong cuộc đời bế tắc. Họ là những con người có đủ tài năng, có đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập xô đẩy. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này, nổi bật nhất phải kể đến sáng tác thuộc trào lưu nhân đạo thể kỉ XVII – XVIII, những tác phẩm của những tác giả nổi tiếng như Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương với Làm lẽ, Bánh trôi nước vv ... Đó là những tác phẩn mà đến nay như vẫn còn vang vọng tiếng kêu cứu não nùng đau đớn của những con người quằn quại trong vũng lầy xã hội cũ.

" Hồng nhan đa truân " – câu ấy có lẽ lại là một lời nhận xét rút ra từ hiện thực cuộc sống của người xưa. Có lẽ lời nhận xét ấy cũng phần nào đúng với thực tế vì trong hầu hết các tác phẩm, những người phụ nữ bất hạnh lại thường là những người phụ nữ đẹp. Đấy là những người có vẻ đẹp trung hậu, dịu dàng của người phụ nữ nông thôn như nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, có " tư dung tốt đẹp " hay vẻ đẹp khỏe mạnh tràn đầy sức sống của cô gái đương độ nhan sắc với nước da trắng và thân hình khỏe mạnh.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Đến những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành ...

Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh cao nhất, đẹp nhất của thiên nhiên, đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của liễu cũng phải " hờn " phải " ghen " với người con gái tuyệt sắc đó.

Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ còn có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương tính thùy mỵ, nết na, giữ gìn khuôn phép. Chồng đi lính xã nhà, nàng ở nhà nuôi con, phụng giưỡng mẹ già và chung thủy đợi chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao cả. Nàng sẵn sang hi sinh thân mình cứu lấy gia đình khỏi cơn nguy biến, chấp nhận mọi sóng gió cuộc đời.

Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại ập đến với họ. Nỗi đau đớn nhất của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Nỗi oan nghiệt đã đổ ập xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ con tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã đến nỗi phải tìm tới cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước mơ lớn nhất của nàng là được sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với nàng.

Với Kiều, Người con gái " sắc đành đòi một, tài đành họa hai ", cuộc đời nàng con gian truân lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng, một văn nhân hào hoa, phong nhã, vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng gọi xé lòng :

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì "ba trăm lạng bạc việc này mới xong", mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán người cò kè ngã giá:

Cò kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đâu khổ dằn vặt của người con gái liễu yếu đào tơ ấy "Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng". Nhưng đó chỉ mới mở đầu cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, vốn nổi tiếng là mụ chủ của làng thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại "Gia tư nghi cũng thường thường bậc trung", vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái con nhà gia giáo. Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái thanh lâu. Nàng đã chịu bao trận đòn tàn khốc của Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm đạm nhất trong cuộc đời của nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng trở thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận mình.

Mặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó là một chút ánh sáng lóe lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời tooist tăm của nàng tưởng hửng sáng nhưng rồi lại càng tối tăm mịt mù hơn. Ấy là nàng được Thúc Sinh một khách làng chơi hào phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con nhà quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn :

Làm cho cho mệt cho mê Làm cho đau đớn ê chề cho coi

Hoạn Thư bày ra một cách thật ngang trái. "Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng đau đớn cả cõi lòng", "Người ngoài cười nụ" mà "người trong khóc thầm".

Đau khổ đến cùng cự, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lẫu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải – vị anh hùng của cuộc khỏi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân của hai con người "trai anh hùng, gái thuyền quyên" đó đã tưởng được bền lâu. Cho đến khi công thành danh toại "Triều đình riêng một góc trời", đã báo ân báo oán, nàng lại rơi vào cái bấy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ giết chồng mình. Lúc đó Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng. "Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi". Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng, và khi chợt tỉnh hẳn đã không ngại gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghãi. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng Kiều như một lời nhận xét của nhà phê bình văn học. Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương có lần chua xót thốt lên:

Kẻ đặp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Người con gái trong xã hội phong kiến không được quyền định đoạt bất kì một vấn đề gì. Thông qua hình tượng chiếc bánh trôi bập bềnh, trôi nổi. Hồ Xuân Hương đã nói đến cuộc sống cũng như đức hạnh của người phụ nữ :

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Như chiếc bánh trôi nước, thân phận người phụ nữu tùy thuộc vào bàn tay của người khác, họ đành cam chịu số phận đã sắp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất tốt đẹp đó là tấm lòng kiên định trong sáng.

Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc nhưng cũng không thể không bộc lộ những cảm xúc :

Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung

Với nàng Kiều người con gái được coi là biểu tượng của một nỗi đau khổ. Nguyễn Du dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan vỡ, cũng đau đớn khi những lằn roi quất lên làn da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng thao thức : "Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh" Tình yêu thương con người đã khiến nàng vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho từng lớp quý tộc phong kiến, nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ gây lên cuộc đời đau khổ cho nàng Kiều. Đối với những phường buộn thịt, bán người ông chủ trương trừng trị đích đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này, chứ không cho đến kiếp sau.

Hồ Xuân Hương và một số nhà thơ khác cũng có thái độ tương tự. Chưa bao giờ cuộc sống gia đình và hạnh phúc riêng tư được đề cập đến nhiều như giai đoạn này. Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát hạnh phúc. Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh phúc, được sống trong mái ấm gia đình của người phụ nữ. Mặt khác bà cũng lột trần bộ mặt của những kẻ được gọi là văn nhân, tài tử trong xã hội phong kiến, chúng mang bộ mặt đạo đức giả luôn tỏ ra cao đạo nhưng thực chất là những kẻ dâm ô nhất. Lên tiếng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cũng lên tiếng đả phá chế độ đa thê đã từng chộn vùi cuộc sống của nhiều cô gái trẻ. Đó là dấu hiệu của sự rạn nứt ý thức hệ phong kiến nặng nề đã tồn tại từ bao đời nay.

Viết về người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tá giả văn học cổ Việt Nam. Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi băn khoăn và tìm đến cách lý giải những nối khổ của người phụ nữ không tránh khỏi những sai lệch. Nguyễn Du đã lý giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi "tài mệnh tương đồ", vì "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" "Ông trời một thế lực tối cao vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác phẩm, Nguyễn Du đã lý giải hẳm, những kẻ dê tiện, bỉ ổi từng hãm hãi cuộc đời nàng Kiều đã hiện lên rất thực rất sinh động. Từ tên bán tơ xảo quyệt, mụ Tú Bà buôn thịt bán người hay tên quan xử vụ kiện họ Vương ăn đút lót "Có ba trăm lạng việc này mới xong", tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến ... cả xã hội hỗn loạn đó đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vo hình nhưng vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ dau đớn thốt lên :

- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền - Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong

Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế đọ đa thê cũng tạo nên đau khổ cho người phụ nữ. Đứng trước nối đau đớn ấy, nhiều nhà văn không thể né tránh trách nhiệm và nghãi vụ của mình. Văn học thời kỳ này đa góp cho nền văn học VIệt Nam một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.

Nhưng tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc với họ, của những nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và lưu truyền.

Bình luận (0)
minh nguyet
17 tháng 8 2019 lúc 16:23

Tham khảo:

– Đó là những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn: Thúy Kiều, nàng Tiểu Thanh, người cung nữ, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương,…

– Nhưng họ cũng là những người chịu nhiều bi kịch đau đớn, đắng cay:

+ Thúy Kiều phải trải qua mươi lăm năm lưu lạc, ê chề trong chốn bùn nhơ ( Truyện Kiều – Nguyễn Du)

+ Tiểu Thanh chết trẻ trong cô đơn, tủi nhục ( Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du)

+ Vũ Nương cũng bị chồng nghi oan và chịu kết cục đau buồn ( Chuyện người con gái Nam Xương– Nguyễn Dữ)

+ Người cung nữ bị vua ruồng bỏ, chôn vùi tuổi xuân trong cung cấm lạnh lẽo ( Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)

+ Người chinh phụ đơn chiếc, mòn mỏi đợi chồng trong tuyệt vọng ( Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)

+ Hồ Xuân Hương cay đắng trong thân phận vợ lẽ, không một lần được hưởng hạnh phúc trọn vẹn ( Tự tình, Làm lẽ),…

– Họ cũng là những người ý thức sâu sắc về phẩm giá của mình ( Nỗi thương mình – Truyện Kiều), khát vọng vươn lên khẳng định tài năng của mình trong cuộc sống ( Đề đền Sầm Nghi Đống – Hồ Xuân Hương).

– Nhưng hơn ai hết, họ là những người có phẩm chất trong sáng (Chuyện người con gái Nam Xương– Nguyễn Dữ, Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều – Nguyễn Du,…), bất bình, chán ghét với cuộc sống tù túng, ngột ngạt, tẻ nhạt thực tại ( Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Tự tình, Làm lẽ – Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều ,…), có khát vọng về một cuộc sống công bằng, khát khao hạnh phúc, tự do yêu đương (Truyện Kiều – Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn,Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều, Làm lẽ – Hồ Xuân Hương,…), mong ước có được một tình yêu thủy chung, son sắt (Mời trầu – Hồ Xuân Hương),…

¦ Đứng trên lập trường nhân sinh, các nhà văn đã bày tỏ nỗi cảm thông, thương xót, chia sẻ với những nỗi thống khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu; trân trọng, phát hiện ở người phụ nữ những phẩm chất tốt đẹp; thấu hiểu, đồng cảm với những khát vọng sống, hạnh phúc đầy tính nhân văn của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện qua các tác phẩm.

Bình luận (0)
Thảo Phương
17 tháng 8 2019 lúc 16:32

Từ xưa tới nay, văn học luôn là tấm gương phản chiếu một cách chân thực nhất cuộc sống con người. Trong vô số những đề tài đã và đang được văn học khai thác, hình ảnh người phụ nữ chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Đặc biệt thân phận người phụ nữ trong văn học trung đại đã được tập trung phân tích trên nền bối cảnh xã hội phong kiến đầy rẫy bất công và bi kịch.

Đầu tiên, một đặc điểm chung dễ nhận thấy nhất ở người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại: họ đều là hiện thân của cái đẹp. Cái đẹp ở đây mang ý nghĩa tài sắc vẹn toàn, họ không chỉ có dung nhan xinh đẹp, mà quan trọng hơn, tâm hổn họ cũng ẩn chứa nét đẹp cao quý. Nói về vẻ đẹp hoàn hảo ấy ta không thể không nhớ ngay tới một vài nhân vật tiêu biểu. Đầu tiên là nhân vật trữ tình trong bài thơ Bánh trôi nước của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Ngay câu thơ đầu tiên:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn.”

đã lột tả sinh động vẻ đẹp tự nhiên của người con gái: trắng trẻo, đầy đặn, tròn trịa, căng tràn sức sống mãnh liệt. Một vẻ đẹp khác cũng được nền văn học trung đại đề cao, đó là nét đẹp hiền hậu, hài hoà dễ mến của nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương được khắc hoạ qua duy nhất một cụm từ “tư dung tốt đẹp”. Còn hai giai nhân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì lại hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo đến độ mê hồn. Đó là nàng Thuý Vân với những đường nét đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng. Khuôn mặt nàng sáng như trăng rằm, cùng nét lông mày dài, sắc nét, đậm và đẹp như được vẽ. Nàng hội tụ tất cả những chuẩn mực về cái đẹp của thiên nhiên: điệu cười tươi thắm như hoa, giọng nói cất lên trong trẻo như ngọc, mái tóc thì vừa đen vừa dài, óng ả mượt mà, bồng bềnh hơn cả những đám mây, làn da nàng trắng tựa tuyết… Dường như tất cả những gì được coi là khuôn mẫu, là chuẩn mực của cái đẹp đều hiện hữu, quy tụ đầy đủ trong chân dung Thuý Vân. Nổi trội hơn cả, xứng đáng được coi là đỉnh cao của cái đẹp, những tưởng là Vân nhưng thực chất lại là chị của nàng – Thuý Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thuỷ nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

Đó là một vẻ đẹp mơ hồ, khó nắm bắt mà lại rất đẹp, đẹp hơn cả những gì được coi là chuẩn mực khiến thiên nhiên phải sinh lòng ghen ghét, đố kị. Với Thuý Kiều, Nguyễn Du chỉ tập trung tái hiện vẻ đẹp của đôi mắt nàng, bởi đôi mắt ấy trong trẻo như làn nước mùa thu cộng với nét lông mày thanh tú, đầy sức sống như núi mùa xuân. Đôi mắt ấy là cửa sổ tâm hồn, thể hiện cả thần thái, sự tinh anh của trí tuệ và vẻ đẹp tâm hồn nàng Kiều. Thiên nhiên vốn đã được coi là chuẩn mực của cái đẹp, vậy mà giờ đây những bông hoa tươi thắm như ghen với Thuý Kiều vì đôi môi tươi thắm. Rồi cành liễu vốn mềm mại xanh tươi là thế mà còn phải thua cả dáng vẻ của nàng.

Đó mới chỉ là vẻ đẹp hình thức, dung nhan. Tâm hồn của những người con gái, những tuyệt sắc giai nhân ấy còn đẹp hơn rất nhiều. Câu thơ ngắn gọn nhưng phần nào bao quát được nét đẹp của nhân vật trữ tình trong Bánh trôi nước:

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”

Mặc dù phải chống chọi với số phận lênh đênh, với biết bao khó khăn, trắc trở nhưng tất cả những người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được tấm lòng thuỷ chung son sắt với người mình yêu. Đó là Vũ Nương một lòng yêu chồng thương con mặc dù chồng phải đi lính, cách xa vạn dặm. Tinh yêu ấy còn thể hiện ở chỗ nàng rất hiếu thảo với mẹ chồng, chăm lo phụng dưỡng chẳng khác nào mẹ đẻ mình. Nổi bật và có lẽ được .biết tới nhiều nhất là nhân vật Thuý Kiều yẫn một lòng chung thuỷ với Kim Trọng. Cả cuộc đời nàng luôn ân hận, day dứt vì đã để lỡ một mối tình, vì đã không thể thực hiện trọn vẹn lời thề nguyền với Kim Trọng. Rồi người con gái ấy đã thể hiện tấm lòng hiếu thảo dành cho cha mẹ bằng hành động bán mình chuộc cha và em rồi đến mười lăm năm lưu lạc, nàng vẫn thương nhớ và đau đớn đến tột cùng khi nghĩ đến các bậc sinh thành.

Không chỉ thuỷ chung với người mình yêu, hiếu thảo với cha mẹ mà tất cả những người phụ nữ ấy đều rất tình nghĩa và nhân hậu. Đó là nàng Vũ Nương với quyết tâm ở lại chốn cung nước để đền đáp ơn cứu mạng của Linh Phi. Là Thuý Vân mặc dù không hề yêu Kim Trọng nhưng vẫn thực hiện tốt lời nguyện ước của chị kết duyên cùng Kim Trọng và thay Kiều chăm sóc cho chàng. Rồi sau mười lăm năm, vì thương Kim Trọng, thương Thuý Kiều nên nàng đã giúp hai người tái hợp vui vẻ. Đó là Thuý Kiều đã vô cùng nhân hậu khi có cơ hội báo oán, nàng đã tha bổng cho Hoạn Thư mà không trả thù những lần bị sỉ nhục, đánh đập trước đó. Nàng đã đền đáp chú.t vàng bạc cho Thúc Sinh. Đặc biệt Thuý Kiều đã vô cùng ân hận, đau khổ vô cùng khi biết mình là người đã gián tiếp gây ra cái chết của Từ Hải.

Một đặc điểm nữa rất dễ thấy ở người phụ nữ trong văn học trung đại, đó là: họ luôn khao khát hạnh phúc và yêu thương. Điển hình là Vũ Nương, sau khi lấy Trương Sinh, biết chàng là người ít học, bản tính hay ghen tuông vô cớ nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không bao giờ để vợ chồng bất hoà. Còn với Thuý Kiều thì sau khi gặp Kim Trọng, dường như nàng đã quên đi mọi lễ giáo phong kiến, băng mình trong đêm để tìm đến với Kim Trọng, tự tìm đến với hạnh phúc, tình yêu đích thực của mình. Rồi sau khi nảy nở tình cảm với Thúc Sinh, Kiều mong muốn được sống trọn đời với người mình yêu dù cho có phải làm lẽ.

Một vẻ đẹp nữa không thể không kể đến của người phụ nữ trong văn học trung đại là tài năng của họ. Tiêu biểu nhất là tài đánh đàn và làm thơ của Thuý Kiều. Mười lăm tuổi Kiều đã chơi đàn thành thạo đến mức trở thành nghề riêng, nàng lại còn sáng tác bản Bạc mệnh và tự mình đàn lên những khúc nhạc ấy làm rung động lòng người. Rồi trong cuộc gặp gỡ định mệnh với Đạm Tiên, Thuý Kiều đã viết nên những câu thơ vô cùng sâu sắc và cảm động tới mức làm lay động cả quỷ thần, khiến cho hồn Đạm Tiên hiện về ngay lập tức,… Qua đó, ta thấy hiện lên chân dung những người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại đều rất đẹp. Họ không chỉ đẹp ở hình dáng bề ngoài mà còn đẹp ở tâm hồn và tình cảm nữa.

Tài sắc vẹn toàn, vậy mà trớ trêu thay, người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại lại đều có cuộc đời đầy bất hạnh và đau thương. Đầu tiên phải kể đến nhân vật trữ tình trong bài thơ Bánh trôi nước. Thân phận người phụ nữ được khái quát một cách rất chân thực mà lại sinh động qua hai câu thơ:

“Bảy nổi ba chìm với nước non,

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.”

Đó là một thân phận chìm nổi, long đong, lận đận trước những chông gai, những khó khăn của xã hội mà không thể tự quyết định được cuộc đời mình, mà phải phó mặc cho kẻ khác định đoạt. Hay như người chinh phụ trong Sau phút chia ly (trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm diễn Nôm) đã phải dằn lòng để tiễn người chinh phụ – người chồng ra nơi mặt trận khói bụi đầy bất trắc, sống chết bất ngờ…để rồi sau đó một mình sống trong thương nhớ, lo lắng, đợi chờ, sầu muộn mênh mông, triền miên. Đáng thương hơn là nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương vốn yêu chồng yêu con là thế, dẫu một lòng thuỷ chung với chồng nhưng không ai ngờ chính người chồng và đứa con ngây thơ ấy lại làm tan vỡ hạnh phúc nhỏ nhoi của nàng, đẩy Vũ Nương vào chỗ chết. Cho dù sống dưới chốn cung nước mênh mông xa hoa nhưng hạnh phúc của Vũ Nương lại nằm nơi trần thế. Vẫn biết phải chung sống với người mình không hề yêu thương là một sự đau khổ nhưng Thuý Vân đã sống cùng Kim Trọng để thực hiện lời “trao duyên” của chị mình. Và đỉnh điểm của mọi nỗi đau khổ phải kể đến Thuý Kiều. Khởi đầu là hành động bán mình chuộc cha, xuất phát từ tấm lòng hiếu thảo của nàng, nhưng đâu ngờ hành động ấy lại cũng là khởi điểm cho chuỗi ngày buồn đau bất hạnh xảy đến với nàng sau này. Một người con gái còn ngây thơ, trong trắng như thế mà dần dần bị cả xã hội phong kiến vùi dập, từ những tầng lớp có thể coi là mạt hạng nhất của xã hội cho đến những kẻ có chức có quyền mà lòng lang dạ thú. Rồi đến cuối cùng, khi quay trở lại với Kim Trọng, Kiều vẫn không thể giữ trọn vẹn tình cảm như trước và nàng cũng vẫn không có được hạnh phúc. Qua đó, ta cũng thấy được sự tố cáo, lên án xã hội phong kiến thối nát, tư tưởng nam quyền của các tác giả văn học.

Đọc các tác phẩm văn học trung đại nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, chúng ta thấy trào dâng niềm cảm thương đến tột cùng cho những thân phận bé nhỏ và bất hạnh ấy. Đó cũng là bởi khi viết về số phận của họ, ngòi bũt của các tác giả cũng như rỉ máu, những giọt máu đầy đau đớn, xót xa, vô cùng cảm thương nhưng bất lực.

Bình luận (0)
B.Thị Anh Thơ
17 tháng 8 2019 lúc 19:32

Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ, đó là người phụ nữ. Họ là Hình tượng tiêu biểu cho những số kiếp bi đát, cho những con người trong cuộc đời bế tắc. Họ là những con người có đủ tài năng, có đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập xô đẩy. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này, nổi bật nhất phải kể đến sáng tác thuộc trào lưu nhân đạo thể kỉ XVII – XVIII, những tác phẩm của những tác giả nổi tiếng như Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương với Làm lẽ, Bánh trôi nước vv ... Đó là những tác phẩn mà đến nay như vẫn còn vang vọng tiếng kêu cứu não nùng đau đớn của những con người quằn quại trong vũng lầy xã hội cũ.

" Hồng nhan đa truân " – câu ấy có lẽ lại là một lời nhận xét rút ra từ hiện thực cuộc sống của người xưa. Có lẽ lời nhận xét ấy cũng phần nào đúng với thực tế vì trong hầu hết các tác phẩm, những người phụ nữ bất hạnh lại thường là những người phụ nữ đẹp. Đấy là những người có vẻ đẹp trung hậu, dịu dàng của người phụ nữ nông thôn như nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, có " tư dung tốt đẹp " hay vẻ đẹp khỏe mạnh tràn đầy sức sống của cô gái đương độ nhan sắc với nước da trắng và thân hình khỏe mạnh.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Đến những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành ...

Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh cao nhất, đẹp nhất của thiên nhiên, đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của liễu cũng phải " hờn " phải " ghen " với người con gái tuyệt sắc đó.

Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ còn có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương tính thùy mỵ, nết na, giữ gìn khuôn phép. Chồng đi lính xã nhà, nàng ở nhà nuôi con, phụng giưỡng mẹ già và chung thủy đợi chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao cả. Nàng sẵn sang hi sinh thân mình cứu lấy gia đình khỏi cơn nguy biến, chấp nhận mọi sóng gió cuộc đời.

Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại ập đến với họ. Nỗi đau đớn nhất của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Nỗi oan nghiệt đã đổ ập xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ con tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã đến nỗi phải tìm tới cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước mơ lớn nhất của nàng là được sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với nàng.

Với Kiều, Người con gái " sắc đành đòi một, tài đành họa hai ", cuộc đời nàng con gian truân lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng, một văn nhân hào hoa, phong nhã, vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng gọi xé lòng :

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì "ba trăm lạng bạc việc này mới xong", mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán người cò kè ngã giá:

Cò kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đâu khổ dằn vặt của người con gái liễu yếu đào tơ ấy "Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng". Nhưng đó chỉ mới mở đầu cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, vốn nổi tiếng là mụ chủ của làng thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại "Gia tư nghi cũng thường thường bậc trung", vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái con nhà gia giáo. Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái thanh lâu. Nàng đã chịu bao trận đòn tàn khốc của Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm đạm nhất trong cuộc đời của nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng trở thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận mình.

Mặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó là một chút ánh sáng lóe lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời tooist tăm của nàng tưởng hửng sáng nhưng rồi lại càng tối tăm mịt mù hơn. Ấy là nàng được Thúc Sinh một khách làng chơi hào phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con nhà quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn :

Làm cho cho mệt cho mê Làm cho đau đớn ê chề cho coi

Hoạn Thư bày ra một cách thật ngang trái. "Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng đau đớn cả cõi lòng", "Người ngoài cười nụ" mà "người trong khóc thầm".

Đau khổ đến cùng cự, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lẫu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải – vị anh hùng của cuộc khỏi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân của hai con người "trai anh hùng, gái thuyền quyên" đó đã tưởng được bền lâu. Cho đến khi công thành danh toại "Triều đình riêng một góc trời", đã báo ân báo oán, nàng lại rơi vào cái bấy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ giết chồng mình. Lúc đó Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng. "Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi". Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng, và khi chợt tỉnh hẳn đã không ngại gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghãi. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng Kiều như một lời nhận xét của nhà phê bình văn học. Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương có lần chua xót thốt lên:

Kẻ đặp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Người con gái trong xã hội phong kiến không được quyền định đoạt bất kì một vấn đề gì. Thông qua hình tượng chiếc bánh trôi bập bềnh, trôi nổi. Hồ Xuân Hương đã nói đến cuộc sống cũng như đức hạnh của người phụ nữ :

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Như chiếc bánh trôi nước, thân phận người phụ nữu tùy thuộc vào bàn tay của người khác, họ đành cam chịu số phận đã sắp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất tốt đẹp đó là tấm lòng kiên định trong sáng.

Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc nhưng cũng không thể không bộc lộ những cảm xúc :

Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung

Với nàng Kiều người con gái được coi là biểu tượng của một nỗi đau khổ. Nguyễn Du dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan vỡ, cũng đau đớn khi những lằn roi quất lên làn da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng thao thức : "Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh" Tình yêu thương con người đã khiến nàng vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho từng lớp quý tộc phong kiến, nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ gây lên cuộc đời đau khổ cho nàng Kiều. Đối với những phường buộn thịt, bán người ông chủ trương trừng trị đích đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này, chứ không cho đến kiếp sau.

Hồ Xuân Hương và một số nhà thơ khác cũng có thái độ tương tự. Chưa bao giờ cuộc sống gia đình và hạnh phúc riêng tư được đề cập đến nhiều như giai đoạn này. Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát hạnh phúc. Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh phúc, được sống trong mái ấm gia đình của người phụ nữ. Mặt khác bà cũng lột trần bộ mặt của những kẻ được gọi là văn nhân, tài tử trong xã hội phong kiến, chúng mang bộ mặt đạo đức giả luôn tỏ ra cao đạo nhưng thực chất là những kẻ dâm ô nhất. Lên tiếng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cũng lên tiếng đả phá chế độ đa thê đã từng chộn vùi cuộc sống của nhiều cô gái trẻ. Đó là dấu hiệu của sự rạn nứt ý thức hệ phong kiến nặng nề đã tồn tại từ bao đời nay.

Viết về người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tá giả văn học cổ Việt Nam. Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi băn khoăn và tìm đến cách lý giải những nối khổ của người phụ nữ không tránh khỏi những sai lệch. Nguyễn Du đã lý giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi "tài mệnh tương đồ", vì "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" "Ông trời một thế lực tối cao vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác phẩm, Nguyễn Du đã lý giải hẳm, những kẻ dê tiện, bỉ ổi từng hãm hãi cuộc đời nàng Kiều đã hiện lên rất thực rất sinh động. Từ tên bán tơ xảo quyệt, mụ Tú Bà buôn thịt bán người hay tên quan xử vụ kiện họ Vương ăn đút lót "Có ba trăm lạng việc này mới xong", tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến ... cả xã hội hỗn loạn đó đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vo hình nhưng vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ dau đớn thốt lên :

- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền - Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong

Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế đọ đa thê cũng tạo nên đau khổ cho người phụ nữ. Đứng trước nối đau đớn ấy, nhiều nhà văn không thể né tránh trách nhiệm và nghãi vụ của mình. Văn học thời kỳ này đa góp cho nền văn học VIệt Nam một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.

Nhưng tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc với họ, của những nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và lưu truyền.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Linh Anh
Xem chi tiết
Tony Sony
Xem chi tiết
Ngọc Huyền
Xem chi tiết
Nguyễn Hòa
Xem chi tiết
Nghiêm Duy Thành
Xem chi tiết
Linh Nguyễn
Xem chi tiết
my nguyễn
Xem chi tiết
Trọng Nguyễn
Xem chi tiết
Dung
Xem chi tiết