Văn bản ngữ văn 8

Anhh Linhh

Phân tích văn bản "Chiếu dời đô"- Lý Công Uẩn và " Hịch tướng sĩ"- Trần Quốc Tuấn để thấy được tấm lòng yêu nước nồng nàn của các vị lãnh đạo( dung lượng khoảng 1 trang giấy)

Trương Hồng Hạnh
21 tháng 4 2019 lúc 14:50

Tình cảm yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc. Tình cảm đó được thể hiện mãnh liệt trong những lời tâm huyết của những nhà lãnh đạo đất nước từ xa xưa. Ta có thể kể đến những văn bản tiêu biểu như "Chiếu dời đô" của Lí Thái Tổ, "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn.

Chiếu dời đô ra đời khi Lí Thái Tổ mới lên ngôi. Nhà vua mong muốn đất nước có một kinh đô đàng hoàng to rộng đặng bề phát triển đất nước. Đó là lí do vì sao ông đã phê phán và chỉ ra việc đóng đô ở vùng Hoa Lư đã không còn phù hợp nữa: "Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi". Hoa Lư là vùng có địa thế hiểm trở, khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh thì nó hợp với chiến lược phòng thủ. Nhưng đến đời Lí thì đất nước đặt ra nhu cầu phát triển, cho nên đô thành phải dời chuyển ra nơi có địa thế khác. Không chỉ cỏ lí lẽ, Lí Công Uẩn bày tỏ cả tấm lòng mình: "Trẫm rất đau xót về việc đó". Tình cảm của một ông vua luôn hướng về vận mệnh, sự tồn vong của giang sơn xã tắc khiến người đọc cảm động.

Bởi tấm lòng đau đáu nghĩ đến một mảnh đất thiêng có thể phù trợ cho việc phát triển đất nước, nhà vua đã nhìn ra thế đất của thành Đại La. Đó là nơi có vị thế thuận lợi về nhiều mặt, về mật địa lí, tác giả phân tích rõ: Nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi", bốn hướng đều thông thoáng lại ở thế "nhìn sông dựa núi" vững vàng, "địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng". Trên địa thế ấy, dân cư sẽ tránh được lụt lội mà "muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Thuận lợi về mặt địa lí như vậy sẽ kéo theo những thuận lợi về thông thương, giao lưu: "Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước". Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là đầu mối trung tâm của kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.

Trong "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, tấm lòng yêu nước lại được thể hiện trực tiếp qua nhiều phương diện.

Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc: "Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!". Qua những câu văn đó, bộ mặt của quân giặc được phơi bày đồng thời tác giả cũng bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ của mình đối với bọn chúng. Điều đó được thể hiện đậm nét qua việc tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,... ; các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều - sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó - bắt nạt tể phụ.

Sau khi tố cáo tội ác củạ giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng." Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Qua đoạn văn này, hình tượng người anh hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì đất nước được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.

Chẳng những vậy, tấm lòng yêu nước của vị đại tướng đáng kính còn được thể hiện sâu đậm qua tấm lòng của một chủ tướng đối với binh lính của mình: "Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (...) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.'' Đó thật là tấm lòng phụ tử đáng cảm động vậy!

Có thể nói, tấm lòng yêu nước của các tác giả được thể hiện qua hai văn bản "Chiếu dời đô" của Lí Thái Tổ, "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn" rất đa dạng, nhiều vẻ khác nhau song đều tựu chung ở mong muốn đất nước an bình, phát triển trù phú. Tấm lòng đó chẳng những được thể hiện một cách cảm động qua hai văn bản mà còn được hai nhà lãnh đạo kì tài chứng minh bằng những đóng góp thực tiễn cho lịch sử phát triển hào hùng của dân tộc.

Bình luận (0)
minh nguyet
21 tháng 4 2019 lúc 14:52

Tham khảo:

Hai văn bản tuy ra đời trong những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau, có nội dung khác nhau nhưng Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ đều thể hiện sự quan tâm, lo lắng của những vị lãnh đạo đối với vận mệnh đất nước. Chiếu dời đô được Lý Công Uẩn viết năm 1010 ngay sau khi ông mới lên ngôi. Ông viết bài chiếu này để ban bố quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Lúc này, đất nước đang trong thời bình, triều Lí phát triển lớn mạnh về cả thế và lực nên với nhãn quan chính trị, Lý Công uẩn thấy được Hoa Lư - một vùng đất chật hẹp, bao quanh bởi núi non hiểm trở không còn là nơi thuận tiện đế định đô nữa mà phải tiến xa ra vùng đồng bằng rộng lớn để xây dựng đất nước độc lập, phồn thịnh, triều đại phát triển lâu dài, bền vững. Khác với Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ được viết vào khoảng tháng 9 năm 1284 trước khi diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai. Lúc bấy giờ, đất nước đang trong thời loạn, Tổ quốc đang đứng trước họa xầm lăng của kẻ thù, Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này nhằm khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân giặc. Dù là lúc hòa bình hay khi cận kề chiến tranh, những người lãnh đạo như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn cũng đều thể hiện sự quan tâm, lo lắng đối với vận mệnh đất nước.

Không chỉ thể hiện sự quan tâm của các vị lãnh dạo đối với vận mệnh đất nước mà Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ còn có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc, thể hiện vai trò của những người lãnh đạo an ninh. Trước hết, để thuyết phục quan lại và thần dân, Lý Công Uẩn đã lấy những dẫn chứng trong lịch sử Trung Quốc các triều đại nhiều lần dời đô; nhà Thương năm lần dời đô; nhà Chu ba lần dời đô. Và kết quả những lần dời đô đó là: vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Lý Công Uẩn đã lấy những dẫn chứng trên làm cơ sở lí lẽ và coi đó là khuôn vàng thước ngọc để soi vàng thực tế hai triều Đinh - Lê còn nhiều hạn chế khi cứ đóng yên đô thành ở Hoa Lư: triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Từ đó, nhà vua khẳng định việc dời đô là tất yếu, là thuận theo ý trời, phù hợp với quy luật khách quan. Tiếp đến, Lý Công Uẩn chỉ ra những thuận lợi của Đại La: từng là kinh đô cũ của Cao Vương, thế đất rồng cuộn, hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đông lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi, là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước và là nơi giao thương thuận tiện bậc nhất của đế vương muôn đời. Thật vậy, đặt Đại La vào thời điểm 1000 năm trước thì nó vẫn chỉ là một. đầm lầy cỏ mọc um tùm, nhưng với tầm nhìn xa trông rộng, Lý Công uẩn đã thấy được những thuận lợi ở nơi đây và trải qua hàng ngàn năm, Đại La (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, vẫn là kinh đô của đất Việt. Điều đó đã chứng tỏ sự anh minh, sáng suốt của nhà vua. Bài chiếu không chỉ là lời lẽ khô khan, những mệnh lệnh cứng nhắc mà nó còn là sự kết hợp giữa lí và tình. Nhà vua đã thể hiện niềm yêu thương, quan tâm, lo lắng đến nhân dân, đến quốc gia, dân tộc: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”. Và cuối bài chiếu, Lý Công Uẩn thể hiện quyết tâm của mình nhưng ông không sử dụng từ “phải” hay câu mệnh lệnh mà lại là câu hỏi và từ “muốn” mang tính trao đồi, tâm tình, thế hiện tính dân chủ, tôn trọng bề tôi của nhà vua và khiến bài chiếu có sức thuyết phục, dễ đi vào lòng người.

Còn nhà lãnh đạo tài ba - Trần Quốc Tuấn khi chứng kiến sự ngang ngược, tham lam của sứ giặc, cảm thấy danh dự của một quân nhân, một chủ tướng, danh dự của đất nước bị xúc phạm, cũng chứng kiến những hành vi sai trái của tướng sĩ nên ông đã viết bài Hịch tướng sĩ nhằm khích lệ quân sĩ để họ tập trung về một hướng. Khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Trước hết, ông nêu gương những trung thần nghĩa sĩ đã hi sinh vì chủ để khích lệ ý chí xả thân lập công danh của họ. Sau đó, ông tố cáo những tội ác của giặc là ngang ngược, hống hách và tham lam: đi lại nghênh ngang trên đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ; thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng. Đồng thời, ông cũng bộc bạch tâm sự của chính mình, nó là nỗi đau xót, lo lắng đến quên ăn quên ngủ khi vận mệnh đất nước đang nghìn cân treo sợi tóc: ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, là sự căm uất đến tột độ đối với những hành vi của giặc: “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”, và khí thế, ý chí muốn hành động thực tế để giết giặc không tiếc hi sinh: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Qua những lí lẽ đó, Trần Quốc Tuấn muốn khích lệ lòng căm thù giặc và nhấn mạnh nỗi nhục mất nước. Tiếp đó, ông còn nói đến mối quan hệ ân tình giữa chủ tướng và các tướng sĩ dưới quyền: không có mặc thì cho áo, không có cơm thì cho cơm, quan nhỏ thì thăng chức, lương ít thì cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì cho ngựa, lúc trận mac xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười; đó là mối quan hệ thân thiết như ruột thịt nhằm khích lệ tư tưởng “trung quân ái quốc”, thái độ sống ân nghĩa, thủy chưng. Sau đó, ông nghiêm khắc phê phán những lối sống sai trái của tướng sĩ: nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc làm không biết tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm, hay chơi chọi gà, hay thích đánh bạc, hay thích rượu ngon, hay mê tiếng hát. Đó chính là lối sống bàng quan, hưởng lạc khi vận mệnh đất nước đang lâm nguy. Rồi Trần Quốc Tuấn chỉ ra những việc cần làm: đọc cuốn Binh thư yếu lược, huấn luyện binh sĩ, tập dượt cung tên, nâng cao tinh thần cảnh giác. Rồi từ đó khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ của tướng sĩ. Bài hịch này đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai, nó như một hồi kèn xung trận, thúc giục các tướng sĩ đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các tướng sĩ đã hưởng ứng bài hịch bằng cách xăm hai chữ “Sát thát” lên tay và mang khí thế bừng bừng xung trận chiến đấu với quân giặc, quyết tâm chiến thắng kẻ thù. Cuộc kháng chiến đã giành thắng lợi vẻ vang và cho đến nay bài hịch vẫn còn nguyên giá trị. Qua đó, ta cũng thấy được vai trò của Trần Quốc Tuấn trong việc chỉ huy, huấn luyện quân sĩ, để họ tích cực tham gia chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ Tố quốc.

Vai trò của những người lãnh đạo là vô cùng quan trọng. Lịch sử dân tộc ta đã cho thấy, ở bất kì giai đoạn nào cũng xuất hiện những người đi tiên phong, những người lãnh đạo tài ba chèo lái vận mệnh đất nước, như Lý Công Ưẩn, Trần Hưng Đạo, gần đây nhất là Bác Hồ - vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại đã đưa đất nước ta thoát khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp và chiến thắng đế quôc Mĩ đưa đất nước ta thành một đất nước độc lập, tự do, dân chủ. Đúng vậy, trong công cuộc dựng nước và giữ nước sẽ luôn có những vị lãnh đạo tài năng như bộ não của đất nước đó, giúp đất nước được độc lập, tự do, phát triển vững mạnh và lâu bền.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Kim ngân Nguyễn thị
Xem chi tiết
BaekYeol Aeri
Xem chi tiết
BaekYeol Aeri
Xem chi tiết
Văn Ngọc Hà Anh
Xem chi tiết
Phạm Trang
Xem chi tiết
Đăng Đào
Xem chi tiết
Y Sương
Xem chi tiết
Hải Yến
Xem chi tiết
Diệp Phi Yến
Xem chi tiết