Hướng dẫn soạn bài Cảnh khuya

Nguyễn Trung Kiên

Cảm nhận của em về vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc qua hai bài thơ "Cảnh khuya" và "Rằm tháng giêng" của tác giả Hồ Chí Minh.

Thảo Phương
9 tháng 12 2018 lúc 9:54

Cả hai bài đều nói đến trăng; cảnh trăng trong mỗi bài thơ lại có những nét đẹp riêng, sắc thái biểu cảm riêng.

Cảnh trăng trong bài ‘Cảnh khuya’ là cảnh trăng thu. Có suối chảy rì rầm trong rừng khuya từ xa vọng đến nghe rất ‘trong’, ‘như tiếng hát xa’ êm đềm, ngọt ngào. Trăng sáng lung linh. Ánh trâng ‘lồng’ vào cổ thụ và hoa ngàn. Cảnh trăng thơ mộng, huyền diệu mang vẻ đẹp cổ điển, rất hữu tình thi vị:

‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’

Trăng đã làm đẹp thêm cảnh sắc núi rừng chiến khu, đem đến bao xúc động, khiến nhà thơ khẽ thốt lên trong lòng: ‘Cảnh khuya như vẽ...’.

Cảnh trăng trong bài ‘Nguyên tiêu’ là cảnh trăng xuân, trăng trong đêm rằm tháng giêng, trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Vũ Bằng trong ‘Thương nhớ mười hai’ đã nói về trăng tháng giêng ở miền Bắc: ‘Trời sáng lung linh như ngọc’, ‘cái trăng tháng giêng, non như người con gái mơn mởn đào tơ ‘, ‘ánh trăng ấy không

vàng mà trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền’.

Trăng trong bài thơ của Bác làm cho sông xuân, nước xuân, trời xuân trở nên bát ngát bao la, vừa đẹp vừa dạt dào sức sống. Ba chữ ‘xuân’ trong câu thơ thứ 2 làm cho cảnh trăng đất nước trở nên tráng lệ, tinh khôi:

‘Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên’.

Câu thơ thứ 4, vầng trăng rằm tháng giêng lại được nói đến. Con thuyền của lãnh tụ để ‘bàn bạc việc quân’ giữa nơi khói sóng đã trở thành con thuyền của thi nhân lúc trở về bến lúc nửa đêm. Con thuyền đã chở đầy ánh trăng:

‘Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền’

Trăng trong hai bài thơ của Bác là trăng sáng, trăng tròn. Cảnh trăng nào cũng hữu tình thơ mộng. Tuy có sắc thái biểu cảm khác nhau, nhưng tất cả đều nói lên tình yêu trăng, tình yêu thiên nhiên chan hòa với tình yêu quê hương đất nước. Cảnh trăng là một nét đẹp trong hồn thơ Hồ Chí minh: ung dung , lạc quan, yêu đời.

Bình luận (0)
Kieu Diem
8 tháng 12 2018 lúc 20:42

Trong bài thơ “Cảnh khuya” thiên nhiên hiện lên sống động, bình dị mà lung linh, huyền ảo biết bao:

"Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ.
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà".

Mở đầu bài thơ, bằng nghệ thuật so sánh tài tình, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên đầy ấn tượng

"Tiếng suối trong như tiếng hát xa".

Tiếng suối cháy róc rách, văng vẳng mơ hồ khiến nhà thơ tưởng như có tiếng hát êm ái, ngọt ngào, trong trẻo, ngân xa của ai đó vọng lại. Cách so sánh ấy không chỉ làm cho tiếng suối lạnh lẽo, xa xôi, vô hồn bỗng trở nên sống động, trẻ trung mà còn làm cho cảnh rừng yên ắng, tĩnh mịch trở nên có hồn người, xao động. Đêm rừng chiến khu bỗng trở nên gần gũi, thân thương với con người, bỗng mang hơi ấm của sự sống con người. Có lẽ trong đêm khuya thanh vắng, Bác đang mê mải với công việc cách mạng thì tiếng suối ngân lên khiến Người rời bàn viết. Khẽ ngước lên, vẻ đẹp của đêm lại quyến rũ Người. Nét đặc sắc và rất riêng biệt của đêm chiến khu tiếp tục tạo ấn tượng cho thị giác:

"Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa".

Câu thơ vẽ nên một hình ảnh hữu tình, ấm cúng: ánh sáng của trăng bao trùm lên cây cổ thụ, bóng cây đổ xuống lại bao trùm lên hoa. Nếu câu đầu là trong thơ có nhạc (Thi trung hữu nhạc) thì câu thứ hai này là trong thơ có họa (Thi trung hữu họa). Hình ảnh thơ có vẻ đẹp của bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét, hình khối đa dạng. Các sự vật đan lồng vào nhau tạo nên một bức tranh chỉ có hai gam màu sáng tối, trắng đen như nhiều lớp lang, tầng bậc cao thấp lung linh, chập chờn, huyền ảo, sống động mà ấm áp, hòa hợp quấn quýt với hàng chục, hàng trăm sắc hình đa dạng. Trăng - cây cổ thụ - hoa, ba vật thể cách nhau ngàn trùng, cao thấp, lớn bé cùng rất khác nhau nhưng lại đan cài, ôm ấp, nâng đỡ, soi sáng, tôn lên vẻ đẹp của nhau tạo nên một bức tranh nên thơ, sống động, có hồn. Điệp từ "lồng" được nhắc đi, nhắc lại hai lần thật đắt, thật hay bởi nó đã tạo nên âm hưởng ngọt ngào cho câu thơ.

Trong bức tranh đêm hiền hòa, dịu êm như thế xuất hiện hình ảnh con người chưa ngủ. "Chưa ngủ" vì “lo nỗi nước nhà” và cũng vì thế bất chợt bắt gặp và chia sẻ với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên.

Nếu như trong "Cảnh khuya", thiên nhiên hiện lên là cảnh rừng Việt Bắc chập chờn hai gam màu cơ bản trắng - đen thì trong "Rằm tháng giêng thiên nhiên hiện lên lại là vẻ đẹp lồng lộng, bát ngát trăng vàng giữa dòng sông xuân mênh mang:

"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên.
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền".

Bài thơ được Xuân Thủy dịch là:

"Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền"

Bài thơ vẽ nên cảnh đẹp tuyệt vời của đêm nguyên tiêu, vầng trăng mùa Xuân vừa đúng độ tròn, xinh tươi, soi sáng khắp bầu trời cao rộng, trong trẻo, thoáng đãng. Bầu trời và vầng trăng tưởng như không có giới hạn, dòng sông mùa xuân, màu nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân: “Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”. Điệp từ "xuân” được nhắc đi nhắc lại ba lần mang âm điệu bay bổng, gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm sao! Thủy, nguyệt, thiên vốn là những chất liệu của thi ca cổ nhưng Bác đã có sự sáng tạo đặc biệt tài hoa để làm nổi bật cái thần của bức tranh "nguyên tiêu": tươi sáng, rực rỡ, tràn đầy sức sống của vạn vật, con người.

Giống như phần lớn những bài thơ về thiên nhiên của Bác, “Nguyên tiêu” không thể thiếu vắng hình ảnh con người, và đó là người chiến sĩ cách mạng. Chỉ có khác một điều, trong “Nguyên tiêu”, hình ảnh người chiến sĩ không hiện lên đơn độc mà được thể hiện qua hình ảnh con thuyền cách mạng ấm cúng tình đồng chí, đồng đội:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

Hình ảnh đó mở ra cho ta một cánh cửa kỳ diệu khám phá con người Bác: nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng rất đỗi thiêng liêng, bí mật mà đẹp như trong huyền thoại, nơi bàn chuyện hệ trọng sống còn của đất nước, vậy mà Người vẫn đắm say tận hưởng một vầng trăng đẹp, một vầng trăng viên mãn. Ở đó, cái thực và cái ảo đan xen, hài hòa: "Yên ba thâm xứ" là ảo, "đàm quân sự" là thực, "nguyện chính viên" là thực; nhưng "nguyệt mãn thuyền" là ảo. Song cái ảo đó chính là chất lãng mạn, chất trữ tình trong thơ Bác. Sau hội nghị quan trọng, quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh của Đảng, của đất nước; con thuyền, con người hòa quyện với thiên nhiên, thấm đẫm, tràn trề lai láng ánh trăng.

“Cảnh khuya” và “Nguyên tiêu”, tuy hai bài thơ đều viết về trăng ở chiến khu Việt Bắc, nhưng ở mỗi bài vẻ đẹp của trăng lại được người thi sĩ cảm nhận bằng một vẻ riêng. Trăng trong “Cảnh khuya” là ánh trăng đã được nhân hoá. Trăng lồng bóng vào cây cổ thụ để giãi “hoa” (hoa trăng) trên mặt đất. Cảnh vật như hiện ra lồng lộng dưới ánh trăng. Thêm nữa, tiếng suối trong đêm trong trẻo như tiếng ai đang ngân nga hát càng làm cho trăng khuya thêm mơ mộng. Trong khi đó, trăng trong Rằm tháng riêng là trăng xuân, trăng mang không khí và hương vị của mùa Xuân. Cảnh ở đây là cảnh trăng ở trên sông, có con thuyền nhỏ trong sương khói. Nhưng điểm đặc biệt nhất phải nói đến đó là sự chan hoà của ánh trăng như tràn đầy cả con thuyền nhỏ.

Hai bài thơ này được Bác viết trong những năm đầu kháng Pháp vô cùng khó khăn gian khổ. Nhưng ở trong thơ, ta vẫn gặp một chủ thể trữ tình rất yêu thiên nhiên, vẫn ung dung làm việc, vẫn chan hoà cùng ánh trăng thơ mộng của núi rừng. Người lo lắng cho đất nước nhưng trong tâm hồn, Bác vẫn dành cho thiên nhiên những niềm ưu ái, không vì việc quân bận rộn mà Người đành hờ hững, từ chối vẻ đẹp thiên nhiên, điều này nói lên phẩm chất lạc quan và phong thái ung dung của Bác.

Bình luận (0)
Nguyễn Minh Huyền
8 tháng 12 2018 lúc 21:07
Thân bài Phân tích thiên nhiên trong hai bài thơ Cảnh khuya và Rằm tháng giêng

Trong thời gian làm việc tại Pác Pó, Hồ Chí Minh đã sáng tác hai bài thơ về trăng rất tiêu biểu tại chiến khu Việt Bắc, cùng lấy cảm hứng về Trăng song mỗi bài lại có một nét riêng, sắc thái riêng tạo nên những nét độc đáo riêng của mỗi bài thơ. Bức tranh thiên nhiên Người tả theo hai cách riêng nhưng vẫn toát lên được nét đẹp của phong cảnh

Bài thơ “cảnh khuya” Bác miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng những nét sinh động, làm cho người đọc cảm nhận được sự đa sắc màu và có sức hấp dẫn, trong đêm khuya qua cảm nhận mà Bác vẽ lên thiên nhiên thật sống động.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Đọc câu thơ lên người đọc cảm nhận được thiên nhiên thơ mộng, Người ví tiếng suối như tiếng hát, hòa lẫn với tiếng gió trong đêm khuya, giai điệu nhẹ nhàng, lẳng lặng, nhẹ nhàng trong đêm nếu không chú ý khó mà có thể cảm nhận được. Tiếng suối chảy trong đêm khuya mà Bác ví như tiếng hát nghe êm dịu, dễ đi vào lòng người. Khi Bác cảm nhận được đã khó lòng bỏ qua mà còn vương vấn, muốn nghe mãi thôi. Trong không gian như vậy đã làm cho tâm hồn người thi sĩ. Sử dụng nghệ thuật so sánh làm tăng thêm sự ấn tượng cho phong cảnh thiên nhiên, đêm khuya Người chưa ngủ, chắc do tiếng suối ngân lên khiến cho Bác phải gác tạm công việc sang bên để cảm nhận trọn vẹn cảnh sắc đó. Người dùng những từ ngữ mềm mại, uyển chuyển nói lên khung cảnh hữu tình:

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảm nhận hình ảnh mặt trăng với cây cổ thụ với hoa. Cho thấy một cách nhìn độc đáo, ánh trăng soi xuống những cây cổ thụ tạo nên những chỗ bóng cây ” lồng” hoa, những bông hoa trôi trên mặt nước lấp lánh dưới ánh trăng, trông thật đẹp và mơ mộng, với điệp từ “lồng” như vậy Người muốn nhấn mạnh sự hòa quyện của ánh trăng với cảnh vật trong đêm khuya, sự hài hòa mà không nhàm chán . Tưởng chừng như không liên quan, thế vậy qua ngòi bút của Người những hình ảnh liên kết với nhau một cách hài hòa, trữ tình làm cho ta cảm thấy thật thơ mộng. Cùng miêu tả ánh trăng như vậy nhưng ánh trăng trong bài “rằm tháng giêng” lại cho ta thấy cái vẻ đẹp khác, vẻ đẹp của sắc xuân:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Ánh trăng trong bài nói đến tiết trời của mùa xuân rằm tháng giêng nên nó mang theo sự gợi cam, thanh xuân của trời mây. Qua câu thơ cũng biết rằng Bác đang đứng trên một dòng sông vào mùa xuân, với khí trời hơi se lạnh, Người cảm nhận “sông xuân nước” những dòng chảy của dòng sông nhẹ nhàng, không gian bầu trời rộng bao la hòa lẫn với nhau. Điệp từ “xuân” làm cho không khí bát ngát đã xuân rồi càng thêm xuân. Ánh trăng lấp lánh hòa quyện cùng ánh trăng tạo nên bức tranh phong tình hữu cảnh, không khí xuân tràn đầy khắp ý thơ, sự sáng tạo đó làm cho tết nguyên tiêu thêm rực rỡ, tươi sáng, cảnh vật và con người thêm sinh động tràn đầy sức sống.

Cả hai bài thơ khi đọc lên đều cho ta cảm nhận được phong cảnh thiên nhiên đẹp. Bài “Cảnh khuya” cho thấy sự kết hợp của trăng, cổ thụ, hoa, ánh trăng được nhân hóa thì “Rằm tháng giêng” lại là sự kết hợp của trăng, bầu trời với ánh trăng trải rộng bao la khắp trời còn “đầy thuyền”. Hai bài thơ miêu tả cảnh trăng ở Việt Bắc, thể hiện tình cảm với thiên nhiên, tầm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ. Dù trong thời kỳ nào, hoàn cảnh nào, trong đêm khuya hay những ngày rằm tác giả vẫn toát lên được thiên nhiên hữu tình, thiên nhiên rất nhiều cảnh đẹp chỉ cần qua cảm nhận của mỗi người là khác nhau cũng đã thấy được muôn màu muôn vẻ mà thiên nhiên đã ưu ái cho đất nước ta. Một bức tranh thiên sống động qua hai bài thơ làm cho người đọc càng muốn mơ mộng, vương vấn không dứt, muốn cảm nhận hết được những điều đó tâm hồn của nhà thơ rất nhạy bén và sâu sắc. Có thể thấy Hồ Chí Minh đã rất nhiều sử dụng hình ảnh ánh trắng để miêu tả, song mỗi vầng trăng, ánh trăng lại có một nét riêng không trùng lặp, cho ta cảm giác mỗi lần tả lại là một ánh trăng khác. Hai bài đều viết trong thời kỳ chiến tranh nhưng khi đọc lên vẫn cho ta cảm giác được sự yên bình, ung đung làm việc, sự chan hào của ánh trăng với núi rừng Tây Bắc.

<h2 justify;\"="" >

Qua những hình ảnh đó, ta thấy Hồ Chí Minh có một tâm hồn của người thi sĩ, Người luôn giành ưu ái cho thiên nhiên, không hờ hững, từ chối càng thể hiện được tinh thần lạc quan yêu đời của Người, trong mỗi tác phẩm Bác lại đem cho người đọc cảm xúc riêng, mỗi cảm xúc làm cho ta khoan thai, một ấn tượng khác nhau về thiên nhiên của hai bài thơ.

Bình luận (0)
Nguyễn Trần Nhi Thư
8 tháng 12 2018 lúc 21:08

Một trong những nhà thơ của Việt Nam, Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân ta, Người còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của dân tộc, của nền văn học nước nhà. Cảnh khuya và rằm tháng giêng là hai bài thơ tứ tuyệt của Bác được sáng tác trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hai bài thơ nhiều hình ảnh thiên nhiên đẹp, có màu sắc cổ điển mà bình dị, tự nhiên.

Bài thơ cảnh khuya:

Trong thời gian làm việc tại Pác Pó, Hồ Chí Minh đã sáng tác hai bài thơ về trăng rất tiêu biểu tại chiến khu Việt Bắc, cùng lấy cảm hứng về Trăng song mỗi bài lại có một nét riêng, sắc thái riêng tạo nên những nét độc đáo riêng của mỗi bài thơ. Bức tranh thiên nhiên Người tả theo hai cách riêng nhưng vẫn toát lên được nét đẹp của phong cảnh

Bài thơ “cảnh khuya” Bác miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng những nét sinh động, làm cho người đọc cảm nhận được sự đa sắc màu và có sức hấp dẫn, trong đêm khuya qua cảm nhận mà Bác vẽ lên thiên nhiên thật sống động.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Đọc câu thơ lên người đọc cảm nhận được thiên nhiên thơ mộng, Người ví tiếng suối như tiếng hát, hòa lẫn với tiếng gió trong đêm khuya, giai điệu nhẹ nhàng, lẳng lặng, nhẹ nhàng trong đêm nếu không chú ý khó mà có thể cảm nhận được. Tiếng suối chảy trong đêm khuya mà Bác ví như tiếng hát nghe êm dịu, dễ đi vào lòng người. Khi Bác cảm nhận được đã khó lòng bỏ qua mà còn vương vấn, muốn nghe mãi thôi. Trong không gian như vậy đã làm cho tâm hồn người thi sĩ. Sử dụng nghệ thuật so sánh làm tăng thêm sự ấn tượng cho phong cảnh thiên nhiên, đêm khuya Người chưa ngủ, chắc do tiếng suối ngân lên khiến cho Bác phải gác tạm công việc sang bên để cảm nhận trọn vẹn cảnh sắc đó. Người dùng những từ ngữ mềm mại, uyển chuyển nói lên khung cảnh hữu tình:

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Bài thơ rằm tháng giêng:

Cảm nhận hình ảnh mặt trăng với cây cổ thụ với hoa. Cho thấy một cách nhìn độc đáo, ánh trăng soi xuống những cây cổ thụ tạo nên những chỗ bóng cây ” lồng” hoa, những bông hoa trôi trên mặt nước lấp lánh dưới ánh trăng, trông thật đẹp và mơ mộng, với điệp từ “lồng” như vậy Người muốn nhấn mạnh sự hòa quyện của ánh trăng với cảnh vật trong đêm khuya, sự hài hòa mà không nhàm chán . Tưởng chừng như không liên quan, thế vậy qua ngòi bút của Người những hình ảnh liên kết với nhau một cách hài hòa, trữ tình làm cho ta cảm thấy thật thơ mộng. Cùng miêu tả ánh trăng như vậy nhưng ánh trăng trong bài “rằm tháng giêng” lại cho ta thấy cái vẻ đẹp khác, vẻ đẹp của sắc xuân:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Ánh trăng trong bài nói đến tiết trời của mùa xuân rằm tháng giêng nên nó mang theo sự gợi cam, thanh xuân của trời mây. Qua câu thơ cũng biết rằng Bác đang đứng trên một dòng sông vào mùa xuân, với khí trời hơi se lạnh, Người cảm nhận “sông xuân nước” những dòng chảy của dòng sông nhẹ nhàng, không gian bầu trời rộng bao la hòa lẫn với nhau. Điệp từ “xuân” làm cho không khí bát ngát đã xuân rồi càng thêm xuân. Ánh trăng lấp lánh hòa quyện cùng ánh trăng tạo nên bức tranh phong tình hữu cảnh, không khí xuân tràn đầy khắp ý thơ, sự sáng tạo đó làm cho tết nguyên tiêu thêm rực rỡ, tươi sáng, cảnh vật và con người thêm sinh động tràn đầy sức sống.

Cả hai bài thơ khi đọc lên đều cho ta cảm nhận được phong cảnh thiên nhiên đẹp. Bài “Cảnh khuya” cho thấy sự kết hợp của trăng, cổ thụ, hoa, ánh trăng được nhân hóa thì “Rằm tháng giêng” lại là sự kết hợp của trăng, bầu trời với ánh trăng trải rộng bao la khắp trời còn “đầy thuyền”. Hai bài thơ miêu tả cảnh trăng ở Việt Bắc, thể hiện tình cảm với thiên nhiên, tầm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ. Dù trong thời kỳ nào, hoàn cảnh nào, trong đêm khuya hay những ngày rằm tác giả vẫn toát lên được thiên nhiên hữu tình, thiên nhiên rất nhiều cảnh đẹp chỉ cần qua cảm nhận của mỗi người là khác nhau cũng đã thấy được muôn màu muôn vẻ mà thiên nhiên đã ưu ái cho đất nước ta. Một bức tranh thiên sống động qua hai bài thơ làm cho người đọc càng muốn mơ mộng, vương vấn không dứt, muốn cảm nhận hết được những điều đó tâm hồn của nhà thơ rất nhạy bén và sâu sắc. Có thể thấy Hồ Chí Minh đã rất nhiều sử dụng hình ảnh ánh trắng để miêu tả, song mỗi vầng trăng, ánh trăng lại có một nét riêng không trùng lặp, cho ta cảm giác mỗi lần tả lại là một ánh trăng khác. Hai bài đều viết trong thời kỳ chiến tranh nhưng khi đọc lên vẫn cho ta cảm giác được sự yên bình, ung đung làm việc, sự chan hào của ánh trăng với núi rừng Tây Bắc.

Qua những hình ảnh đó, ta thấy Hồ Chí Minh có một tâm hồn của người thi sĩ, Người luôn giành ưu ái cho thiên nhiên, không hờ hững, từ chối càng thể hiện được tinh thần lạc quan yêu đời của Người, trong mỗi tác phẩm Bác lại đem cho người đọc cảm xúc riêng, mỗi cảm xúc làm cho ta khoan thai, một ấn tượng khác nhau về thiên nhiên của hai bài thơ.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Heo Rypa
Xem chi tiết
Miss music girl violin
Xem chi tiết
dương mai hoàng lan
Xem chi tiết
Trần Thị Thùy Dương
Xem chi tiết
Ngọc Diệp
Xem chi tiết
Hoa Thanh Nguyen
Xem chi tiết
NuylDayy
Xem chi tiết
Edogawa Conan
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thu Uyên
Xem chi tiết