Văn bản ngữ văn 8

Nguyễn Bá Hải

Chứng minh văn học của dân lộc luôn ca ngợi những ai biết thương người như thế thương thân và nghiêm khắc phê phán những kẻ thở ờ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn

Thời Sênh
28 tháng 11 2018 lúc 16:12
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Từ thuở còn nằm nôi, ta đã được nghe những lời khuyên bảo dịu dàng đó từ trong lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ. Lớn lên, qua những bài văn, những câu thơ, ta càng thấm nhuần tư tưởng đó của văn học dân tộc: Văn học luôn ca ngợi những ai biết thương người như thế thương thân và nghiêm khắc phê phán những kẻ thở ờ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn.

Chúng ta được tiếp xúc với văn học sớm nhất qua những câu truyện cổ tích, những câu ca dao, tục ngữ. Quên làm sao được cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng, chàng Thạch Sanh thật thà, dũng cảm. Những nhân vật đó đã trở thành một phần tuổi thơ trong kí ức của mỗi người, đi cùng ta suốt năm rộng tháng dài sau này. Không chỉ có những câu truyện cổ tích, kho tàng ca dao, tục ngữ phong phú, đa dạng cũng có sức giáo dục vô cùng lớn. Có lẽ đã là người dân Việt Nam chẳng ai lại không biết đến những câu như: Lá lành đùm lá rách, Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng. Cùng với niềm cảm thương cho số phận của những con người hiền lành, chất phác, tác giả dân gian cũng không quên dành cho những kẻ độc ác, ích kỉ, tàn nhẫn một cái kết thích đáng. Mẹ con Lí Thông sau nhiều hành động gian trá, xảo quyệt bị biến thành con bọ hung, bọn cường hào, địa chủ chuyên bóc lột dân lành cũng không tránh khỏi việc gặp quả báo.

Nền văn học Việt Nam qua thời gian ngày càng phát triển rực rỡ, tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. Đọc “Tức nước vỡ bờ” của Ngô Tất Tố, ta làm sao quên được số phận khốn cùng của chị Dậu cũng như sức phản kháng tiềm tàng ẩn sâu trong con người chị. Để đóng đủ tiền sưu cho chồng, chị đã phải chạy vạy khắp nơi, bán tất cả mọi thứ trong nhà, thậm chí là cả đứa con gái mình mang nặng đẻ đau, dứt ruột sinh ra cho nhà lão Nghị Quế. Thế nhưng, con giun xéo lắm cũng quằn. Trước bao hạch sách cùng đòi hòi vô lí của bọn cai lệ và lũ người nhà lí trưởng, người phụ nữ nhỏ bé tưởng như chỉ biết nhẫn nhịn, chịu đựng ấy đã dám đứng lên để phán kháng và bảo vệ chồng mình. Tác phẩm cũng chính là tiếng kêu cứu cho người nông dân, là tiếng nói cảm thương của tác giả dành cho những kiếp người nhỏ bé phải chịu bao đắng cay, bất hạnh.

Song song với niềm cảm hứng ngợi ca những ai biết thương người như thể thương thân là sự phê phán nghiêm khắc những kẻ dửng dưng, thờ ơ trước người gặp khó khăn, hoạn nạn. Đó là bọn thực dân, cường hào, địa chủ làm nghề bóc lột nhân dân, đẩy họ đến con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa. Trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao, bên cạnh nhân cách ngời sáng của lão Hạc: thà chết để giữ nguyên mảnh vườn cho con là sự xuống cấp, tha hóa của những con người như Binh Tư: đi ăn trộm, ăn cắp, kiếm sống qua ngày. Còn trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn, nhân vật quan phụ mẫu- vốn là cha là mẹ của nhân dân lại chỉ mải mê lo cho ván bài tổ tôm của mình, mặc ngoài kia là đê vỡ, là khốn cùng, là lầm than.

Bản chất của văn chương muôn đời có lẽ là tiếng nói yêu thương, cảm thông với số phận của con người. Nền văn học Việt Nam qua những biến thiên thăng trầm của lịch sử vẫn giữ nguyên vẹn được bản chất ấy, làm giàu có thêm cho tâm hồn người Việt và hướng chúng ta đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

BÀI LÀM 2 CHỨNG MINH VĂN HỌC CỦA DÂN LỘC LUÔN CA NGỢI NHỮNG AI BIẾT THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THẾ THƯƠNG THÂN
Nghệ thuật là nơi trú ngụ của nhân văn, văn học là bảo tàng của những giá trị nhân bản nhất của con người. Bởi vậy, “văn học của dân lộc luôn ca ngợi những ai biết thương người như thế thương thân và nghiêm khắc phê phán những kẻ thở ờ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn”.

Trước tiên, câu nói đề cập đến một đối tượng văn học cụ thể đó là văn học dân tộc. Văn học dân tộc là chỉ chung những tác phẩm văn học thuần túy dân tộc mà ta có thể tìm thấy trong kho tàng dân gian truyền thống như là những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ,… Nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học dân tộc chính là “luôn ca ngợi những ai biết thương người như thế thương thân và nghiêm khắc phê phán những kẻ thở ờ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn” tức là ca ngợi những điều hay lẽ phải, đề cao bản tính lương thiện cùng lòng yêu thương con người với con người, ngược lại, vì đó mà lên án, phê phán, thủ tiêu những tàn dư của xấu xa, vô cảm,… Chính vì điều ấy, văn học dân tộc giáo dục con người ta sống hướng thiện trong nguồn cảm hứng biết yêu thương lẫn nhau đồng thời thức tỉnh những kẻ dửng dưng vô nhân.

Ngay từ những ngày nằm nôi, chúng ta đã được bà, được mẹ ru vào giấc ngủ với những câu hát dân gian mộc mạc mà đậm đà tình người: “Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Hay:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng” Cái tình yêu thương giữa người với người đã từ vô thức mà ngấm vào máu, vào thịt của ta để rồi khi lớn lên, những câu chuyện cổ tích lại âm thầm khai phá tình yêu thương ấy trong tâm hồn chúng ta một cách mãnh liệt hơn. Ta đã yêu quý biết bao cô con gái út phú ông khi thấy cô biết thương mến anh Sọ Dừa mà theo mọi người là “quái dị”, ta yêu mến biết bao Nàng tiên ốc nết na, dịu hiền, biết làm việc nhà thay cho bà cụ bán hàng, ta quý trọng biết bao một cô Tấm vì cái chết của cá Bống mà đau buồn khôn tả,… Văn học dân tộc thực sự dành mối quan tâm lớn cho những con người biết “thương người như thể thương thân” với một tấm lòng lương thiện, văn học ca ngợi họ, cho họ những cái kết có hậu để củng cố lòng tin cho thế hệ sau về “ở hiền gặp lành”. Chỉ có yêu thương người khác thì mới được ngời yêu thương.

Không chỉ ca ngợi những người biết yêu thương người khác mà văn học vì đó mà phê phán những kẻ thờ ơ dửng dưng trước hoạn nạn của người khác. Mỗi một chúng ta đều là một phần của xã hội, tuy chúng ta cá thể những không riêng rẽ, chỉ có kẻ ích kỉ mới có suy nghĩ rằng hoạn nạn của người khác không hề liên quan đến mình. Anh chàng trong câu chuyện dân gian “Cháy nhà hàng xóm” cũng chính vì suy nghĩ ấy mà bị một phen hối hận. Ai trên đời rồi cũng sẽ có lúc khó khăn chỉ là tùy thời điểm, ta dửng dưng trước hoạn nạn của người khác mà chỉ lo đến thân mình cũng chỉ là “cười ngời hôm trước, hôm sau người cười”. Ta giúp người, sẽ có lúc, người giúp lại ta, làm người không nên quá tính toán mà phải sống vì nhau. Và đặc biệt, nếu không thể giúp cũng không nên làm hại người khác, đó là công việc vô cùng thất đức. Không ít những kẻ lợi dụng lúc người khác khó khăn mà vụ lợi, thật đáng chê trách.

Văn học dân tộc “luôn ca ngợi những ai biết thương người như thế thương thân và nghiêm khắc phê phán những kẻ thở ờ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn”. Câu nói trên hoàn toàn đúng đắn. Văn học đã khiến cho chúng ta biết yêu thương nhau và căm ghét cái xấu xa, đê hèn, văn học chính là ngọn hải đăng soi sáng khiến cho thế hệ sau không bao giờ lạc khỏi con đường lương thiện.
Bình luận (0)
Anh Qua
28 tháng 11 2018 lúc 15:10

Bạn và tôi thuở ấu thơ trong nôi, chắc chúng ta ai cũng được nghe lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ:

ơi... Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng"

Gốc của thơ và nhạc là từ đó, vốn văn học nảy sinh từ nền văn hoá dân gian mang theo điệu hồn dân tộc ở trong mỗi người. Mỗi bài thơ ta đọc, mỗi bài văn thầy giảng em nghe đều thấm đẫm một triết lý nhân sinh cao cả nhắc nhở ta đạo làm người biết "thương người như thể thương thân" và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ dửng dưng trước người gặp hoạn nạn. Đó chính là tư tưởng cốt lõi của văn hoá dân tộc.

Văn học là nhân học, gắn văn học với chức năng giáo dục tư tưởng thẩm mĩ, trong mỗi tác phẩm văn chương ở nhà trường, ta đều cảm nhận tinh thần nhân ái của con người Việt Nam, một truyền thống đạo lý tốt đẹp mà mỗi chúng ta luôn trân trọng nâng niu và soi vào đó để tự răn mình.

Từ buổi đầu tiên cắp sách đến trường, trong những lời cô giảng, câu ca dao trong SGK lớp 1 đã thấm vào hồn con lòng nhân ái yêu thương gần gũi như lời thủ thỉ tâm tình của người mẹ. Lớn lên học lớp 5, lớp 6 nghe thầy đọc những trang thơ, những truyện cổ hay, lòng em thấy xúc động nao nao: em thương cô Tấm thảo hiền, ghét Lý Thông ở ác, em thêm yêu quê hương qua lời thơ ngọt ngào của Trần Đăng Khoa:

Em nghe thấy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà

Mái chèo nghe vọng sông xa

Êm êm như tiếng của bà năm xưa

Nghe trăng thở động tàu dừa

Ào ào nghe chuyền cơn mưa giữa trời

Thêm yêu tiếng hát nụ cười

Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn.

(Nghe thấy đọc thơ)

Càng yêu thơ văn dân tộc ta càng khám phá được trong mỗi tác phẩm vẻ đẹp kì diệu lung linh của nó mà cơ sở cho sự sáng tạo chính là cội nguồn của tình yêu thương sự đồng cảm, chân thành của nhà văn với con người tạo nên linh hồn trong mỗi sáng tác.

Đọc truyện "Sơn Tinh Thuỷ Tinh" ai cũng hiểu đó là câu chuyện hoang đường nhưng sao nghìn đời nay ta vẫn yêu vẫn quí, đọc trăm lần không chán bởi hình tượng chàng Sơn Tinh chính là hình ảnh của dân Văn Lang thuở hồng hoang khai thiên lập địa gặp muôn ngàn khó khăn. Càng đọc ta càng khâm phục sự sáng tạo kì diệu của nhân dân khi xây dựng hình tượng nghệ thuật này dưới câu chuyện tình lãng mạn đẹp thời cổ đại. Và càng đọc ta càng thấy dụng ý ngợi ca con người, sức mạnh và ý chí con người quả là lớn lao đáng khâm phục: bao lần đấu tranh, chiến sự xảy ra nhưng Sơn Tinh vẫn thắng, Thuỷ Tinh giao chiến mệt mỏi đành rút quân về. Ca ngợi con người, những con người chính nghĩa, bảo vệ cho công lý đó là chức năng của tác phẩm nghệ thuật nói chung và tác phẩm văn học nói riêng.

Hồi kí "Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng sao đáng yêu đến thế. Bức chân dung chân thực mà sống động về một cậu bé bất hạnh sống thiếu tình thương nhưng vô cùng trong sáng hồn nhiên và có tình yêu thương mẹ mãnh liệt. Hình ảnh cậu bé Hồng trong tác phẩm chính là một con người đáng quí, đáng để các bạn nhỏ học tập noi gương về nghị lực sống, về tình yêu thương và lòng nhân ái vô bờ. Cậu bé mồ côi cha phải sống bên người bà cô cay nghiệt luôn lấy chuyện mẹ em có con với người khác, phải đi ở tha phương cầu thực mà nhiếc móc hành hạ em. Song tình yêu thương mẹ và niềm tin trong sáng của cậu bé 12 tuổi đã giúp em có thêm bản lĩnh sống và vượt qua mọi thử thách để rồi cuối cùng ước mơ được gặp mẹ đã toại nguyện. Cảm giác hạnh phúc đến vô bờ khi ngồi trong lòng mẹ được mẹ ôm ấp vỗ về, được ngắm nhìn khuôn măt thân yêu của người mẹ, được mẹ gãi rôm ở sống lưng... của cậu bé Hổng được gợi lại chân thực và xúc động bằng một đoạn văn thấm đẫm chất trữ tình đã đưa mỗi chúng ta về với cội nguồn, về với tình mẫu tử thiêng liêng của chính mình mà vô tình ta chẳng nhận ra. Tập hồi kí hay và lắng đọng hồn người chính bởi tình thương, sự đồng điệu của trái tim nghệ sĩ đã hoà cùng nhân vật với niềm yêu thương sẻ chia với những cuộc đời đắng cay, bất hạnh.

Văn học thể hiện tình yêu thương ngợi ca những con người có trái tim nhân ái nhưng đồng thời văn học cũng bày tỏ thái độ phê phán nghiêm khắc những kẻ bạc ác, những kẻ thờ ơ dửng dưng trước những người gặp hoạn nạn.

Trong các tác phẩm của mình, người nghệ sĩ không chỉ tạo nên các nhân vật với tính cách một chiều. Chính vì vậy, ta đọc tác phẩm và thấy trong đó những con người với những tính cách đối lập. Phải chăng nhà văn muốn để ta so sánh đối chiếu họ với nhau mà nhận ra thái độ của tác giả, tìm đến sự đồng cảm với trái tim người nghệ sĩ mà yêu, ghét, giận hờn, ngợi ca hay khinh bỉ.

Đọc "Lão Hạc" của Nam Cao, ta càng yêu thương quí trọng lão nông già yếu nghèo khổ nhưng giàu lòng yêu thương và đức tự trọng để mà thêm mến thêm yêu Nam Cao, học được ở ông cái cách nhìn người "cố tìm hiểu họ" mà cảm thông chia sẻ..., thì ta càng chê trách Binh Tư, con người khoẻ mạnh mà lười biếng, nhân cách thoái hoá đi ăn cắp ăn trộm... đáng khinh bỉ.

Hai tuyến nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị - bị trị trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là 2 bức tranh đối lập về con người mà qua đó nhà văn muôn nhắn gửi bức thông điệp, tiếng kêu cứu về số phận người nông dân dưới chế độ cũ. Chính vì vậy nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: Cái cách viết lách như thế, Ngô Tất Tố xui người nông dân nổi loạn.

Sự nổi loạn mà Nguyễn Tuân muôn nói đến trong "Tắt đèn" là sự nổi loạn đầy ý thức khi cái tốt, cái thiện bị ngược đãi, chèn ép nên tức "nước vỡ bờ". Mâu thuẫn cơ bản của xã hội thể hiện trong hai tuyến nhân vật rõ rệt: một bên là những kẻ thông trị cậy chức quyền hà hiếp dân lành mà tiêu biểu là quan Tri phủ Tư Ân, Nghị Quế, Lý trưởng, Chánh tổng... Và một bên là người dân lương thiện chịu cảnh bần cùng đè nén là chị Dậu. Mâu thuẫn đối kháng dâng lên đỉnh điểm nhưng Ngô Tất Tố chỉ đặt ra ở đó. Phải chăng bởi ý thức cách mạng chưa cập đến người dân hay bởi nhà văn mới bằng trái tim nhân đạo của mình rung lên hồi chuông cảnh tỉnh về những cuộc nổi loạn sẽ xảy ra khi những kẻ núp bóng quan Tây bị mất hết nhân tính chỉ mượn cớ đục nước béo cò...

Bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, văn học thể hiện tinh hoa văn hóa và khẳng định sự sáng tạo nghệ thuật của con người Việt Nam. Song điều cốt lõi và cội nguồn của văn chương chính là tình yêu thương, "thương người như thể thương thân". Tiếng nói yêu thương ấy của văn chương đã cất lên ru tâm hồn ta, khiến ta sống “người” hơn.



Bình luận (0)
minh nguyet
28 tháng 11 2018 lúc 15:45

Bạn tham khảo bài này

Từ ngàn đời nay con người Việt Nam đã biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Tuy không cùng cha mẹ sinh ra nhưng đều mang nòi giống con Rồng cháu Tiên. Ca dao có câu:

Bầu ơi! Thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Điều đó đã nhắc nhở chúng ta phải biết thương yêu đồng loại. Đó cũng là bản chất tốt đẹp của dân tộc ta. Ông cha ta đã để lại cho chúng ta một kho tàng văn học vô cùng quý giá về lòng thương người. Người xưa khi để lại những áng văn thơ bất hủ ấy không chỉ muôn chúng ta biết và tự hào về truyền thống “Thương người như thể thương thân” mà còn muôn chúng ta giữ gìn và phát huy những truyền thống đó. Vậy chúng ta hãy cùng tìm hiểu lòng nhân ái được thể hiện qua văn thơ như thế nào? Có lẽ trong thời thơ ấu, không đứa trẻ nào lại không được bà hay mẹ kể cho nghe những câu chuyện cố tích li kì, hấp dẫn Truyện cổ tích không đơn thuần chỉ là truyện tưởng tượng, nó cũng được gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và tình cảm của dân tộc ta. Chúng ta hãy bước vào thế giới cổ tích và tìm đến với những câu chuyện về lòng nhân ái. Có lẽ câu chuyện Thạch Sanh đã thành quen thuộc với chúng ta. Thạch Sanh là một chàng trai khoẻ mạnh, tốt bụng. Ngược lại, Lí Thông là một kẻ mưu mô, xảo trá. Lí Thông đã nhiều lần hãm hại chàng Thạch Sanh nhưng đều thoát được. Khi Thạch Sanh đã cưới được công chúa, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận, hội binh lính mười tám nước chư hầu kéo sang đánh. Thạch Sanh liền một mình cầm cây đàn ra trước quân giặc. Tiếng đàn của chàng vừa cất lên thì quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau. Cuối cùng, các hoàng tử phải cởi áo giáp xin hàng, Thạch Sanh sai dọn một bữa cơm thết đãi những kẻ thua trận. Vậy tại sao Thạch Sanh lại không mang quân ra đánh? Thạch Sanh vốn là một con người nhân hậu, chàng không muốn nhiều binh sĩ phải chết vì chiến tranh phi nghĩa. Tại sao tiếng đàn Thạch Sanh lại làm hại được quân mười tám nước hùng mạnh? Khi binh sĩ đầu hàng, chàng không những không đánh họ, mà còn sai người mang cơm ra thết đãi. Thạch Sanh thật là một con người vô cùng độ lượng. Kết thúc câu chuyện, mẹ con Lí Thông phải chết, còn Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa và lên ngôi vua. Đó thật là một kết thúc có hậu phải không các bạn? Tuy trong truyện có những chi tiết tưởng tượng li kì, không có thật, nhưng câu chuyện đã cho ta thấy ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo của nhân dân ta.

Nhưng không chỉ trong truyện cổ tích, ngay đời sống hằng ngày cũng có những con người như vậy, những con người luôn quan tâm tới người khác. Trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên có đoạn như sau:

Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.

Trong đoạn thơ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tạc nên hình ảnh ông đồ của một thời tàn. Giờ đây ông đồ chỉ như một cái bóng vô hình lặng lẽ ngồi đó, người qua đường chẳng ai chú ý tới ông. Tác giả sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để bộc lộ tâm trạng ông đồ. Mùa xuân mà lại có lá vàng rơi. Lá vàng là biểu tượng cho sự tàn úa. Mưa bụi tuy thật nhẹ nhàng nhưng lại thật là dai dẳng. Nó làm tê tái cả lòng người. Đó không chỉ là nỗi buồn của ông đồ mà còn là nỗi nhớ tiếc của tác giả:

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Ông đồ già ở đầu bài đã biến thành ông đồ xưa ở cuối bài. Trong trường học, người học không cần ông nữa. Và giờ đây, ở ngoài đường, người ta cũng lãng quên ông.

Nhưng may sao vẫn còn một Vũ Đình Liên nhớ tới ông. Tác giả đã nói lên hình ảnh đáng thương của ông đồ, qua đó bộc lộ nỗi nhớ thương da diết của mình với cảnh cũ người xưa. Đó là cảnh người qua đường xúm lại thuê ông viết chữ, tấm tắc khen ngợi tài năng của ông. Nhưng giờ đây tất cả đã qua đi, ông đồ cũng đã biến mất. Hình ảnh ông đồ viết chữ bên đường là một nét đẹp văn hoá của người Việt Nam, vậy mà giờ nó đang bị mai một dần. Thời đó, hiếm có ai lại quan tâm tới ông, tất cả đều thờ ơ. Ở đây lòng nhân ái không chỉ với một người mà còn đối với một lớp người, một thế hệ con người tài năng bị lãng quên. Thế mới biết lòng thương người của Vũ Đình Liên thật rộng lớn.

Trong xã hội, bên cạnh người tốt cũng có những người xấu, thờ ơ trước người gặp hoạn nạn. Chúng ta hãy tìm hiểu điều này qua truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Trong khi trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thì ở trong dinh quan phụ mẫu rất nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Phải chăng quan phụ mẫu chưa nghe tin đê sắp vỡ? Chẳng lẽ lại ngồi ung dung như vậy? Bỗng một người nhà quê tất tả chạy xông vào, thở không ra lời:

"Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi”.

Đọc đến đây ta có thể hình dung quan lớn sẽ hốt hoảng như thế nào? Nhưng thật ngạc nhiên, thật bất ngờ, quan phụ mẫu không những không hốt hoảng mà còn sai lính đuổi cổ bác nông dân ra ngoài. Đến đây ta có thể thấy được bản chất lòng lang dạ thú của tên quan hộ đê đã hiện ra. Hắn vẫn ung dung, vui vẻ ngồi chơi bài, không hiểu lá bài kia có ma lực gì mà lại khiến quan mê mẩn đến thế. Trong cảnh nguy cấp như vậy, trừ những kẻ lòng lang dạ thú như tên quan hộ đê còn có ai là không thương xót đồng bào huyết mạch. Đoạn cuối truyện đã cho ta thấy một sự tương phản đến cực độ. Trong khi quan lớn ù ván bài to như thế thì khắp nơi nước tràn lênh láng, cuốn trôi nhà cửa ruộng đất, tình cảnh thật thảm sầu đã lên án gay gắt một tên quan phủ lòng lang dạ thú, vô trách nhiệm đến mất hết tính người, trước sinh mạng của bao nhiêu người mà chẳng hề động tâm, thương xót. Thật buồn thay cho số phận người dân thời đó!...

Qua những sáng tác văn học trên, chúng ta thấy được rằng: văn học Việt Nam luôn ca ngợi những ai biết “Thương người như thề thương thân” và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn. Chúng ta cần phải biết thương yêu người khác thì mới có thể trở thành người tốt được.

Bình luận (0)
Ham Học Hỏi
28 tháng 11 2018 lúc 17:16

Bạn và tôi thuở ấu thơ trong nôi, chắc chúng ta ai cũng được nghe lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ:

ơi... Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng"

Gốc của thơ và nhạc là từ đó, vốn văn học nảy sinh từ nền văn hoá dân gian mang theo điệu hồn dân tộc ở trong mỗi người. Mỗi bài thơ ta đọc, mỗi bài văn thầy giảng em nghe đều thấm đẫm một triết lý nhân sinh cao cả nhắc nhở ta đạo làm người biết "thương người như thể thương thân" và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ dửng dưng trước người gặp hoạn nạn. Đó chính là tư tưởng cốt lõi của văn hoá dân tộc.

Văn học là nhân học, gắn văn học với chức năng giáo dục tư tưởng thẩm mĩ, trong mỗi tác phẩm văn chương ở nhà trường, ta đều cảm nhận tinh thần nhân ái của con người Việt Nam, một truyền thống đạo lý tốt đẹp mà mỗi chúng ta luôn trân trọng nâng niu và soi vào đó để tự răn mình.

Từ buổi đầu tiên cắp sách đến trường, trong những lời cô giảng, câu ca dao trong SGK lớp 1 đã thấm vào hồn con lòng nhân ái yêu thương gần gũi như lời thủ thỉ tâm tình của người mẹ. Lớn lên học lớp 5, lớp 6 nghe thầy đọc những trang thơ, những truyện cổ hay, lòng em thấy xúc động nao nao: em thương cô Tấm thảo hiền, ghét Lý Thông ở ác, em thêm yêu quê hương qua lời thơ ngọt ngào của Trần Đăng Khoa:

Em nghe thấy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà

Mái chèo nghe vọng sông xa

Êm êm như tiếng của bà năm xưa

Nghe trăng thở động tàu dừa

Ào ào nghe chuyền cơn mưa giữa trời

Thêm yêu tiếng hát nụ cười

Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn.

(Nghe thấy đọc thơ)

Càng yêu thơ văn dân tộc ta càng khám phá được trong mỗi tác phẩm vẻ đẹp kì diệu lung linh của nó mà cơ sở cho sự sáng tạo chính là cội nguồn của tình yêu thương sự đồng cảm, chân thành của nhà văn với con người tạo nên linh hồn trong mỗi sáng tác.

Đọc truyện "Sơn Tinh Thuỷ Tinh" ai cũng hiểu đó là câu chuyện hoang đường nhưng sao nghìn đời nay ta vẫn yêu vẫn quí, đọc trăm lần không chán bởi hình tượng chàng Sơn Tinh chính là hình ảnh của dân Văn Lang thuở hồng hoang khai thiên lập địa gặp muôn ngàn khó khăn. Càng đọc ta càng khâm phục sự sáng tạo kì diệu của nhân dân khi xây dựng hình tượng nghệ thuật này dưới câu chuyện tình lãng mạn đẹp thời cổ đại. Và càng đọc ta càng thấy dụng ý ngợi ca con người, sức mạnh và ý chí con người quả là lớn lao đáng khâm phục: bao lần đấu tranh, chiến sự xảy ra nhưng Sơn Tinh vẫn thắng, Thuỷ Tinh giao chiến mệt mỏi đành rút quân về. Ca ngợi con người, những con người chính nghĩa, bảo vệ cho công lý đó là chức năng của tác phẩm nghệ thuật nói chung và tác phẩm văn học nói riêng.

Hồi kí "Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng sao đáng yêu đến thế. Bức chân dung chân thực mà sống động về một cậu bé bất hạnh sống thiếu tình thương nhưng vô cùng trong sáng hồn nhiên và có tình yêu thương mẹ mãnh liệt. Hình ảnh cậu bé Hồng trong tác phẩm chính là một con người đáng quí, đáng để các bạn nhỏ học tập noi gương về nghị lực sống, về tình yêu thương và lòng nhân ái vô bờ. Cậu bé mồ côi cha phải sống bên người bà cô cay nghiệt luôn lấy chuyện mẹ em có con với người khác, phải đi ở tha phương cầu thực mà nhiếc móc hành hạ em. Song tình yêu thương mẹ và niềm tin trong sáng của cậu bé 12 tuổi đã giúp em có thêm bản lĩnh sống và vượt qua mọi thử thách để rồi cuối cùng ước mơ được gặp mẹ đã toại nguyện. Cảm giác hạnh phúc đến vô bờ khi ngồi trong lòng mẹ được mẹ ôm ấp vỗ về, được ngắm nhìn khuôn măt thân yêu của người mẹ, được mẹ gãi rôm ở sống lưng... của cậu bé Hổng được gợi lại chân thực và xúc động bằng một đoạn văn thấm đẫm chất trữ tình đã đưa mỗi chúng ta về với cội nguồn, về với tình mẫu tử thiêng liêng của chính mình mà vô tình ta chẳng nhận ra. Tập hồi kí hay và lắng đọng hồn người chính bởi tình thương, sự đồng điệu của trái tim nghệ sĩ đã hoà cùng nhân vật với niềm yêu thương sẻ chia với những cuộc đời đắng cay, bất hạnh.

Văn học thể hiện tình yêu thương ngợi ca những con người có trái tim nhân ái nhưng đồng thời văn học cũng bày tỏ thái độ phê phán nghiêm khắc những kẻ bạc ác, những kẻ thờ ơ dửng dưng trước những người gặp hoạn nạn.

Trong các tác phẩm của mình, người nghệ sĩ không chỉ tạo nên các nhân vật với tính cách một chiều. Chính vì vậy, ta đọc tác phẩm và thấy trong đó những con người với những tính cách đối lập. Phải chăng nhà văn muốn để ta so sánh đối chiếu họ với nhau mà nhận ra thái độ của tác giả, tìm đến sự đồng cảm với trái tim người nghệ sĩ mà yêu, ghét, giận hờn, ngợi ca hay khinh bỉ.

Đọc "Lão Hạc" của Nam Cao, ta càng yêu thương quí trọng lão nông già yếu nghèo khổ nhưng giàu lòng yêu thương và đức tự trọng để mà thêm mến thêm yêu Nam Cao, học được ở ông cái cách nhìn người "cố tìm hiểu họ" mà cảm thông chia sẻ..., thì ta càng chê trách Binh Tư, con người khoẻ mạnh mà lười biếng, nhân cách thoái hoá đi ăn cắp ăn trộm... đáng khinh bỉ.

Hai tuyến nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị - bị trị trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là 2 bức tranh đối lập về con người mà qua đó nhà văn muôn nhắn gửi bức thông điệp, tiếng kêu cứu về số phận người nông dân dưới chế độ cũ. Chính vì vậy nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: Cái cách viết lách như thế, Ngô Tất Tố xui người nông dân nổi loạn.

Sự nổi loạn mà Nguyễn Tuân muôn nói đến trong "Tắt đèn" là sự nổi loạn đầy ý thức khi cái tốt, cái thiện bị ngược đãi, chèn ép nên tức "nước vỡ bờ". Mâu thuẫn cơ bản của xã hội thể hiện trong hai tuyến nhân vật rõ rệt: một bên là những kẻ thông trị cậy chức quyền hà hiếp dân lành mà tiêu biểu là quan Tri phủ Tư Ân, Nghị Quế, Lý trưởng, Chánh tổng... Và một bên là người dân lương thiện chịu cảnh bần cùng đè nén là chị Dậu. Mâu thuẫn đối kháng dâng lên đỉnh điểm nhưng Ngô Tất Tố chỉ đặt ra ở đó. Phải chăng bởi ý thức cách mạng chưa cập đến người dân hay bởi nhà văn mới bằng trái tim nhân đạo của mình rung lên hồi chuông cảnh tỉnh về những cuộc nổi loạn sẽ xảy ra khi những kẻ núp bóng quan Tây bị mất hết nhân tính chỉ mượn cớ đục nước béo cò...

Bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, văn học thể hiện tinh hoa văn hóa và khẳng định sự sáng tạo nghệ thuật của con người Việt Nam. Song điều cốt lõi và cội nguồn của văn chương chính là tình yêu thương, "thương người như thể thương thân". Tiếng nói yêu thương ấy của văn chương đã cất lên ru tâm hồn ta, khiến ta sống “người” hơn.


Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Ngoc Dao
Xem chi tiết
Diệp Phi Yến
Xem chi tiết
Hồ Trang
Xem chi tiết
Phan Ngọc Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Bình
Xem chi tiết
Ca Đạtt
Xem chi tiết
Nguyễn Linh
Xem chi tiết
Thắm Nguyễn
Xem chi tiết
sery Lan
Xem chi tiết