Phương pháp thuyết minh về cách làm 1 danh lam thắng cảnh
Phương pháp thuyết minh về cách làm 1 danh lam thắng cảnh
Mở bài
Giới thiệu khái quát về danh lam thắng cảnh:
Việt Nam ta luôn tự hào với muôn vàn danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, nổi tiếng. Trong đó, khu du lịch Tam Cốc – Bích Động đã và đang thu hút được rất nhiều sự chú ý của du khác trong và ngoài nước bởi vẻ đẹp hùng vĩ, vừa hoang sơ, vừa thơ mộng, giản dị.
Thân bài
Luận điểm 1: Vị trí địa lý
– Tam Cốc – Bích Động có tổng diện tích lên đến 350.3 ha, cách thành phố Ninh Bình 7km.
– Tam Cốc – Bích Động nổi tiếng với hệ thống các hang động núi đá vôi tuyệt đẹp. Ngoài ra, nơi đây còn có các di tích lịch sử liên quan đến một triều đại lớn của nước ta – triều đại nhà Trần.
Luận điểm 2: Kết cấu
– Khu du lịch Tam Cốc – Bích Động gồm 2 phần chính: Tam Cốc và Bích Động
– Tam Cốc: có nghĩa là “ba hang” gồm hang Cả, hang Hai và hang Ba. Cả 3 hang đều được tạo thành bởi dòng sông Ngô Đồng chảy xuyên qua núi.
+ Hang Cả có chiều dài lên đến 127m. Cửa hang Cả rộng mở, đâm xuyên qua một quả núi lớn. Khí hậu trong hang khá mát và có nhiều nhũ đá rủ xuống.
+ Hang Hai nằm cách hang Cả gần 1km, dài 60m với nhiều nhũ đá đẹp mắt.
+ Hang Ba tuy nhỏ hơn hang cả và hang Hai nhưng có cấu tạo không kém phần đặc biệt với hai hang trước đó.
+ Bên cạnh còn có các công trình kiến trúc khác: Đền Thái Vi và Động Thiên Hương.
– Khu Bích Động – Xuyên Thủy Động: nằm cách bến Tam Cốc 2km, có nghĩa là “động xanh”. Cái tên này do tể tướng Nguyễn Nghiễm, cha của đại thi hào Nguyễn Du đặt cho động năm 1773.
+ Bích Động gồm 1 hang động khô ngự trên lưng chừng núi. Trên đó có công trình kiến trúc nổi tiếng của Phật giáo – chùa Bích Động. Bên cạnh là một hang động nước chảy xuyên qua lòng núi nên được gọi là Xuyên Thủy động.
+ Xuyên Thủy động là một công trình kiến trúc vô cùng đặc biệt của thiên nhiên. Kết cấu của Xuyên Thủy động như 1 đường ống hình bán nguyệt bằng đá và uốn lượn từ phía Đông sang phía Tây. Trần và vách động thường bằng phẳng. Mái vòm được tạo bởi những phiến đá lớn với muôn hình vạn trạng.
Luận điểm 3: Ý nghĩa của danh lam thắng cảnh
– Khu du lịch Tam Cốc – Bích Động nằm trong quần thể danh thắng Tràng An. Khu du lịch đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt và được tổ chức UNESCO công nhận là di sản thế giới.
– Tam Cốc – Bích Động luôn có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách trong và ngoài nước. Những cảnh quan tuyệt đẹp và sự thanh bình, không khí trong lành, tươi mát, tràn đầy linh khí đã tạo nên sức hấp dẫn đó. Nơi dây không chỉ mang giá trị văn hóa, lịch sử mà còn mang lại những giá trị về kinh tế cho đất nước.
Kết bài
– Không thể phủ nhận, Tam Cốc – Bích Động chính là một niềm tự hào của người dân kinh đô Hoa Lư nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung.
– Chúng ta cần phải giữ gìn và phát triển những giá trị tự nhiên – truyền thống này của dân tộc.
Viết 1 đoạn văn nêu cảm nhận của em về Lý Công Uẩn
Tham Khảo !
Lý Công Uẩn là một vị vua kiệt suất của đất nước ta, ông được mệnh danh là " Một vị anh minh khai mở 1 triều đình chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã rất quan tâm tới nhân dân". Lí Công Uẩn đã lập nên một triều đại nhà Lí lẫy lừng. Nhà Lý dưới sự trị vì của vua Lí Công Uẩn đã phát triển rất lớn mạnh lớn mạnh ...khai mở một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt. Ông chính là người đã viết "Chiếu dời Đô", thuyết phục việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Ông nhìn ra được, nơi đây có thế “rồng cuộn hổ ngồi”,“đúng ngôi nam bắc đông tây” lại “nhìn sông dực núi”. Việc đó là một bước ngoặc rất lớn, nó đánh dấu sựtrưởng thành của dân tộc đại Việt . Bằng tầm nhìn đó, không có gì có thẻ phủ định được sự thông minh, sáng suốt của ông. Không chỉ là một người có tầm nhìn cao, Lý Công Uẩn còn là một vị vua yêu nước thương dân, có tinh thần dân chủ... Ông luôn thương xót cho những người dân vô tội, phải bất đắc dĩ bị lôi vào chiến tranh. Tóm lại, Lý Công Uẩn là một vị vua anh minh, tài giỏi, ông chính là một vị vua vĩ đại của dân tộc
Tham khảo:
Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn là sự tỏ bày ý định từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay) khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế . Sau đó , ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long . Đấy là năm Thuận Thiên thứ nhất – năm khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lý , một triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi .
Xưa nay , thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của 1 đất nước . Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc . Thủ đô có ý nghĩa rất lớn . Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế . Mỗi lần dời là một thử thách của dân tộc . Đó phải là quyết định của những đầu óc ưu tú nhất thời đại . Nói cách khác , ko có ý chí quyết tâm lớn , ko có tầm nhìn thấu cả tương lai thì LÝ Công Uẩn ko thể nói đến chuyện dời đô .
Mở đầu bài chiếu , nhà vua giải thích tại sao lại dời đô . Và bằng một lý lẽ ngắn gọn nhưng sắc sảo , cùng với dẫn chức thiết thực , nhà vua đã khẳng định : việc dời đô ko phải là hành động , là ý chí của một người . Nó là biểu hiện cho xu thế tất yếu của lịch sử . Lý Công Uẩn tuyệt vời là đã hiểu được khát vọng của nhân dân , khát vọng của lịch sử . Dân tộc Việt không chỉ là một nước độc lập . Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông , nhân tâm con người phải thu về 1 mối . Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh . Muốn vậy , việc đầu tiên là phải tìm một nơi “trung tâm của trời đất” , một nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi” . Nhà vua đã rất tâm đắc và hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi nam bắc đông tây” lại “nhìn sông dực núi” . Nơi đây ko phải là miền Hoa Lư chật hẹp , núi non bao bọc lởm chởm mà là “ địa thế rộng mà bằng , đất đai cao mà thoáng” . Như vậy , đây là mảnh đất lí tưởng “ dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt , muôn vật rất mực phong phú tốt tươi .”Thật cảm động , vị vua anh minh khai mở 1 triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt đã rất quan tâm tới nhân dân . Tìm chốn lập đô cũng vì dân , mong cho dân được hạnh phúc . Trong niềm tin của vua , có 1 kinh đô như vậy , nước Đại Việt sẽ bền vững muôn đời .
Dời đô ra Thăng Long là 1 bước ngoặc rất lớn . Nó đánh dấu sự trường thành của dân tộc Đại Việt . Chúng ta ko cần phải sống phòng thủ , phải dựa vào thế hiểm trở như ở Hoa Lư để đối phó với quân thù . Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên , đưa đất nước trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc . Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời , là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời vậy !
Có thể nói , với trí tuệt anh minh tuyệt vời , với lòng nhân hậu tuyệt vời , Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết phục . Phần đầu nhà vua đưa ra những lý lẽ thuyết phục là nhờ những bằng chứng sử sách . Nhưng phần sau nhà vua đã đưa ra những suy nghĩ của riêng mình về miền đất mà vua định lập đô , ko chỉ là cho ta thoả mãn về lí trí mà quan trọng hơn là bị thuyết phục bằng tình cảm . Ta bắt gặp ở đây 1 giọng nói đầy nhân từ , tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực . Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ nguyên tính chân lí của nó . Trải qua bao thăng trầm , con rồng bay lên bầu trời Hà Nội vẫn làm cho cả nước bái phục nhân cách , tài năng của Lý Công Uẩn , 1 vị vua anh minh vĩ đại .
“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo , đặc sắc của tổ tiên để lại . Ngôn ngữ trang trọng , đúng là khẩu khí của bậc đế vương . Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam . Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ .
thuyết minh về cái quạt giấy
thuyết minh về ngôi trường mà em đang học
Viết giùm em với ạ em thuyết minh về thác giang điền ( phần kết bài làm hay cho em nha) ko tra gg em cảm ơn * Mở bài: Giới thiệu bao quát về danh lam thắng cảnh * Thân bài: - Vị trí địa lí của danh lam thắng cảnh ? - Thắng cảnh có những bộ phận nào - Nguồn gốc, quá trình xây dựng, tôn tạo (Lần lượt giới thiệu mô tả từng phần) - Không gian bao quanh (cây cối… - Vị trí của thắng cảnh trong đời sống của nhân dân cả nước, du khách nước ngoài - Ý nghĩa lịch sử, văn hóa của thắng cảnh, bài học về giữ gìn, tôn tạo thắng cảnh * Kết bài: Nêu cảm nghĩ về đối tượng (Niềm tự hào, trân trọng…)
em dựa vào đây là làm được luôn rồi mà?
em có thể lên mạng tham khảo cách dùng từ , nôi câu sao cho hay nha.
em hãy giới thiệu về 1 trò chơi dân gian
giúp mik vs cảm ơn nhìu
tham khảo
Việt Nam ngoài những phong tục tập quán đa dạng, phong phú, nền văn hiến ngàn năm tuổi thì còn có một hệ thống đồ sộ những trò chơi dân gian, đó là những trò chơi được ông cha ta sáng tạo ra trong quá trình sinh hoạt tập thể. Đó là những trò chơi mang tính giải trí, tính cộng đồng cao bởi nó không phải là trò chơi cá nhân mà đòi hỏi mọi người tập trung lại mới có thể chơi. Vì vậy mà Việt Nam luôn nổi tiếng với bạn bè thế giới bởi tính cố kết cộng đồng vô cùng cao. Tính đoàn kết thể hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống nhưng chỉ cần nhìn qua những khía cạnh nhỏ hơn, thông thường hơn của cuộc sống là có thể thấy rõ được điều này. Một trong những trò chơi dân gian khá phổ biến ở Việt Nam, chính là trò chơi nhảy dây.
Nhảy dây là một trò chơi dân gian vô cùng quen thuộc, đặc biệt là ở những vùng quê, vùng nông thôn ở Việt Nam, giống như trò chơi chi chi chành chành hay chơi xóc hòn thì trò nhảy dây cũng vô cùng đơn giản, chỉ cần một sợi dây là mọi người có thể tham gia. Một trong những đặc trưng riêng biệt của các trò chơi dân gian đó chính là tính cộng đồng cao. Bởi vậy mà bất kể trò chơi dân gian nào cũng đòi hỏi sự tham gia của cả tập thể, nó giúp gắn kết quan hệ giữa người với người trong một cộng đồng. Mang tính giải trí cao bởi thời gian lễ hội diễn ra các trò chơi dân gian thường là vào khoảng thời gian nông nhàn trong sản xuất nông nghiệp, vào cuối những mùa vụ, khi những người nông dân đã hoàn thành công tác mùa vụ, đang trong thời gian chờ bước vào mùa vụ mới.
Trò chơi dân gian nhảy dây cũng có rất nhiều phiên bản và nhiều hình thức chơi, bởi ở những nơi khác nhau thì con người lại có xu hướng chơi những hình thức mà mình cho là thú vị nhất, phù hợp nhất với mình. Trước hết, nói đến trò nhảy dây truyền thống, đây chính là trò chơi đòi hỏi sự nhạy bén, tinh tế và sự khéo léo của đôi chân. Theo đó, sợ dây sẽ dùng trong trò chơi dân gian này chính là dây thừng, dây chão, đây đều là những thứ rất dễ tìm trong cuộc sống xưa, bởi nó là thứ dùng để trói, buộc đồ đạc của người nông dân.
Người chơi sẽ bao gồm từ năm đến mười người, chia ra làm hai nhóm, một nhóm sẽ đảm nhận nhiệm vụ quất dây, nhiệm vụ này cần có hai người, mỗi người đứng ở một đầu của sợi dây, cùng ăn ý cùng quất sợi dây theo hướng xuôi kim đồng hồ. Nghe có vẻ dễ dàng nhưng nhiệm vụ này đòi hỏi sự nhịp nhàng của bàn tay, sự ăn ý của đồng đội, bởi nếu một người quất nhanh, một người quất chậm thì sợi dây thừng sẽ bị rối, người chơi sẽ không thể nhảy vào sợi dây được. Sợi dây thừng được quất lên sẽ tạo thành một vòng cung, có bán kính cao hơn đầu một người, bởi chỉ có như vậy người chơi mới có thể nhảy vào sợi dây, tương tác cùng với nó.
Nhóm còn lại sẽ là nhóm người chơi, nhóm này thì có thể có trên hai người, càng đông càng vui. Nhưng ngược lại, càng đông thì trò chơi càng trở nên khó khăn hơn, bởi đông người sẽ khó trong việc tương tác, nhịp nhàng nhảy. Người chơi sẽ nghe theo nhịp đếm một, hai, ba của người quất dây mà nhảy vào sợi dây, khi sợi dây chạm xuống mặt đất thì người chơi sẽ phải nhảy lên cao, sao cho đôi bàn chân của mình không làm vướng dây, người nhảy được càng nhiều thì sẽ là người chiến thắng. Trò chơi thú vị hơn ở chỗ, đó chính là không phải từng người nhảy một mà sẽ gồm bốn người nhảy một lượt, hai người bên này, hai người bên kia.
Khi có hiệu lệnh để nhảy thì sẽ cùng nhau nhảy vào sợi dây làm sao cho đồng đều nhất, khi có nhiều người cùng nhảy thì sẽ khó có thể điều khiển đôi chân của mình hơn, nhưng nếu hiểu ý của đồng đội, nhịp nhàng nhảy lên được thì sẽ vô cùng đều đặn, đẹp mắt. Đây cũng là mục đích quan trọng của trò chơi, gắn kết mọi người lại với nhau, sau trò chơi mọi người sẽ hiểu nhau hơn, sẽ hiểu hơn quá trình hợp tác để hoàn thành một nhiệm vụ. Thế mới nói, trò chơi dân gian tuy đơn giản, dễ chơi nhưng bao giờ nó cũng ẩn chứa trong đó những ý nghĩa nhân văn cao cả của ông cha ta.
Ở những dị bản khác thì trò chơi nhảy dây không phải dùng dây thừng, dây chão để chơi mà dùng một loại dây khác có độ đàn hồi, co giãn cao hơn, như dây chun, dây nịt… và cùng với đó thì hình thức của trò chơi cũng hoàn toàn khác biệt. Thay vì sợi dây được quất cao lên để người chơi có thể nhảy vào thì trò chơi nhảy dây này sẽ do hai người đứng hai bên, để sợi dây vào chân của mình, người chơi phải nhảy vào khoảng trống của hai sợi dây, theo nhịp độ là: nhảy vào, xoạng ra, bắt chéo, nhảy vào và nhảy ra. Quan trọng là hoạt động nhảy vào nhảy ra phải diễn ra thật nhanh, không được gián đoạn. Hoàn thành xong một phần thì sẽ có phần thi khó khăn hơn, mà người ta gọi là các bàn, thấp nhất là bàn gối, sau đó đến bàn đùi, bàn hông, bàn nách và cao nhất chính là bàn cổ. Cùng với đó là độ cao ngày càng được nâng lên.
Trò chơi dân gian nhảy dây tuy có nhiều phiên bản, ở mỗi phiên bản thì hình thức chơi có sự khác biệt, nhưng điểm chung chính là sự thú vị ở trò chơi, bởi nó đề cao tính cộng đồng, tính gắn kết giữa con người với nhau chứ không đơn giản là một trò chơi nhằm mục đích giải trí.
hãy giới thiệu về Giới thiệu cây hoa ngày Tết, giới thiệu con vật nuôi em yêu thích
giới thiệu cây hoa ngày Tết:
1. Mở bài
- Dẫn dắt giới thiệu đến vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về hoa đào.
2. Thân bài
* Nguồn gốc và xuất xứ của hoa đào
- Nhiều người cho rằng cây hoa đào có nguồn gốc xuất phát từ Ba Tư (Persia) bởi tên khoa học của cây hoa này là “Persica”. Tuy nhiên, ý kiến này lại chưa có bằng chứng xác thực để chứng mình.
- Nhiều người thống nhất một điều rằng cây hoa đào lại có nguồn gốc từ Trung Hoa xưa (Trung Quốc ngày nay). Có lẽ việc giả thuyết cây hoa đào có nguồn gốc từ Ba Tư là do hoa đào được đưa vào đất nước này qua “con đường tơ lụa” vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN. Người ta cho rằng người Trung Hoa đã biết trồng đào từ rất nhiều năm về trước.
* Hình dáng và các bộ phận của hoa đào
- Rễ đào: Là dạng rễ cọc, có khả năng cắm sâu vào lòng đất giúp cây chịu hạn tốt. Bởi vậy, những cây đào chơi Tết ta thường hay thấy không cần tưới nước thường xuyên mà vẫn tươi.
- Thân đào, cành đào: Thân, cành thường có màu xanh, màu nâu sáng hoặc màu đỏ tía. Ngoài ra còn có một số loại hoa đào có thân màu trắng mốc như đào phai, đào mốc chẳng hạn. Thân cây thường to cỡ khoảng cán chổi hoặc to hơn một chút tùy theo loại.
- Lá đào: Lá nhỏ, màu xanh non mơn mởn. Đầu lá hơi nhọn, hình mũi mác.
- Nụ hoa: Nụ hoa nho nhỏ như hạt sen, màu hồng xinh đẹp. Đế màu xanh nhạt ôm lấy nụ hoa. Sắc hồng tùy theo từng loại hoa mà đậm nhạt khác nhau.
- Hoa đào: Đây là bộ phận đẹp nhất của cây. Hoa đào có trung bình khoảng từ 5 cánh đến hơn 20 cánh tùy theo từng giống hoa. Màu sắc cũng đa dạng khác nhau. Cánh hoa có nhiều hình dạng: hoa cánh đơn, cánh mai, cánh cúc… Những cánh hoa ôm ôm lấy nhau, che chở nhụy hoa bên trong. Mỗi bông hoa đào giống như một đốm lửa nhỏ ngày xuân, giữa cơn mưa phùn sáng lên một sắc rực rỡ.
- Quả đào: Thuộc loại quả hạch, phần thịt mềm có hai màu là màu trắng và màu vàng. Vị quả đào có thể chua, có thể ngọt tùy vào từng loại. Lớp vỏ ngoài có sắc xanh hoặc sắc hồng đỏ, có một lớp lông mỏng.
* Phân loại hoa đào
- Đào bích: Loại đào phổ biến nhất hiện nay. Cánh hoa màu đỏ, cánh to và có nhiều.
- Đào thất thốn: Dáng cây rất bé, thân cây xù xì, mốc meo. Loài hoa này rất đẹp, có hai màu là màu nhung đỏ và màu hồng phai. Hoa có hương thoang thoảng. Khi rụng xuống cũng không rụng cánh mà ở nguyên trên đài. Hoa mọc thành từng chùm rất đặc biệt.
- Đào phai: Cánh hoa màu hồng, phần rìa cánh hơi nhạt dần. Một bông cũng có khá nhiều cánh.
- Đào bạch: Giống như tên gọi của nó, cánh hoa có màu trắng, nhụy hoa màu vàng sáng. Số cánh hoa trong một bông không nhiều.
- Đào mốc, đào đá: Thân cây xù xì. Đây là loại đòa phai mọc trong rừng sâu, núi cao.
* Ý nghĩa của hoa đào
- Trong văn hóa, cây hoa đào và cây đào đã xuất hiện từ lâu, trở thành loài hoa phổ biến. Trong văn hóa cổ truyền Việt Nam, hoa đào là loại cây rất nhiều người mua về đặt trong nhà, với mong muốn sắc hồng của hoa đào hứa hẹn một năm mới tốt lành, may mắn.
- Trong văn học, hoa đào xuất hiện từ những câu ca dao của người xưa, đến những câu thơ, câu ca của nhiều nhà thơ, bậc hiền triết.
- Quả đào còn có giá trị kinh tế trong việc xuất khẩu. Đồng thời, đào cũng là loại hoa quả được ưa chuộng, trở thành nguyên liệu trong quá trình làm các món tráng miệng.
* Cách chăm sóc và gieo trồng hoa đào
- Để có một cây hoa đào đẹp, cần chú ý đến rất nhiều yếu tố như nước, ánh sáng, gió cũng như thời gian gieo trồng.
- Biện pháp chăm sóc cũng rất quan trọng nữa.
3. Kết bài
- Nêu cảm nghĩ của bản thân về vẻ đẹp và ý nghĩa của hoa đào.
Em hãy thuyết minh về 1 loài hoa ngày tết
refer
Trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc ta, nếu hoa đào là đặc trưng của mùa xuân phương Bắc thì hoa mai lại là đặc trưng của mùa xuân phương Nam. Trong khu vườn hay trước sân mỗi nhà, thường không thể thiếu bóng dáng của cây mai.
Cây hoa mai có nguồn gốc là một loại cây dại mọc trong rừng. Cây cao trên hai mét, thân gỗ, chia thành nhiều nhánh, lá nhỏ cỡ hai ngón tay, màu xanh lục. Tán mai tròn xoè rộng. Cây hoa mai có nhiều loại, phổ biến nhất là mai vàng, sau đó là mai tứ quý, rồi đến mai trắng và mai chiếu thủy.
Cây mai vàng dễ sống, ưa đất gò pha cát hoặc đất bãi ven sông. Có thể trồng đại trà thành vườn ruộng hàng vài mẫu mà cũng có thể trồng vài cây trong vườn, hoặc trong chậu sứ. Đất trồng mai có độ ẩm vừa phải và không úng nước. Phân bón cho mai thường là phân bò khô trộn với tro bếp, khô dầu và một ít u-rê, ka-li....
Vào khoảng rằm tháng Chạp (tức 15 tháng 12 Âm lịch) thì người trồng phải tuốt lá cho cây mai. Sau đó giảm tưới nước và bón thúc cho cây nảy nụ. Chỉ sau một tuần là từ các cành, nụ trổ ra chi chít, kết thành từng chùm có cuống rất dài. Bên cạnh mỗi chùm là một túm lá non màu tím nhạt. Trước tết vài ngày, hoa mai lác đác nở. Sáng mùng một Tết, cả cây mai bừng lên một sắc vàng tươi, trông đẹp vô cùng! Mai tứ quý nở quanh năm.
Cánh hoa vàng thẫm nở giữa năm đài hoa tựa như năm cánh sen nhỏ xíu màu đỏ sậm. Khi cánh hoa đã rụng hết, nhụy hoa khô đi thì giữa mỗi bông xuất hiện mấy hạt nhỏ xinh xinh như những hạt cườm, lúc non màu xanh, lúc già chuyển thành màu tím đen lóng lánh. Đứng ngắm vườn mai, ta thầm cảm phục sự mầu nhiệm và hào phóng của tạo hóa.
Mai vàng rực rỡ góp sắc, góp hương với muôn hoa ngày Tết, lại có mai tứ quý cần mẫn, thịnh vượng quanh năm. Mai trắng còn có tên gọi là Bạch Mai. Lúc hoa mới nở có màu hồng phớt, sau chuyển sang trắng, mùi thơm nhẹ nhàng, phảng phất. Mai trắng hơi hiếm bởi khó trồng và được coi là loài hoa quý.
Mai chiếu thủy cây thấp, lá nhỏ lăn tăn, hoa li ti mọc thành chùm màu trắng và thơm ngát, thường được trồng vào chậu hoặc trồng vào hòn non bộ làm cảnh trước sân nhà. Xuân về trên đất phương Nam với màu nắng vàng rực rỡ hòa quyện với không khí tưng bừng náo nức của ngày Tết cổ truyền dân tộc. Nhà ai cũng muốn có một cây mai, hoặc một bình hoa mai tươi nở đúng sáng mồng một đầu năm để lấy may.
Trong ba ngày tết, hoa mai chưa khoe sắc vàng rực rỡ thì gia chủ khó mà cảm thấy niềm vui trọn vẹn. Cây mai được xếp vào hàng "tứ quý" trong bộ tranh "tứ bình" đại diện cho bốn mùa trong năm: Mai, lan, cúc, trúc và hoa mai là biểu tượng của mùa xuân. Về mặt ý nghĩa, cây hoa mai tượng trưng cho phẩm giá thanh cao, tốt đẹp của con người.
Trong những năm gần đây, nhân dân miền bắc đón xuân bằng cả sắc hồng thắm của hoa đào và sắc vàng rực rỡ của hoa mai. Hoa mai, hoa đào hiện diện bên nhau, tô điểm thêm cho mùa xuân tràn đầy sức sống của non nước Việt Nam yêu dấu.
tham khảo
Mùa xuân là mùa của cây trái đâm chồi nảy lộc, muôn hoa đua nhau khoe sắc thắm. Mỗi mùa đều gắn liền với những loài hoa khác nhau. Nhắc đến mùa xuân, nhắc đến ngày tết miền Nam thì không thể không nhắc đến hoa mai. Hoa mai đã trở thành loài hoa đặc trưng của mùa xuân phương nam, là loài hoa gọi mùa xuân về.
Không rõ loài hoa mai xuất hiện từ khi nào, nó đã có từ rất lâu đời từ một loại mai rừng ở đồi núi với dáng vẻ giản dị độc đáo. Người xưa đã đem về trồng để bây giờ nó có thể mang đậm sắc màu Tết của miền Nam nước ta. Dần dần mai đã trở nên quen thuộc đối với người dân Việt Nam.
Hoa mai có rất nhiều loại. Dựa vào màu sắc gồm: Hoàng mai (mai vàng), Bạch mai (mai trắng), Thanh mai (mai xanh), Hồng mai (mai hồng, mai đỏ). Còn dựa vào đặc điểm thì mai gồm có: mai Chiếu Thủy, mai Tứ Quý,... Nhưng mai vàng vẫn là loại phổ biến nhất, đẹp nhất.
Cây mai cũng có những đặc sắc riêng nhất là về hình dạng. Thân mai nhỏ, cành gầy, mỏng manh tạo nên vẻ duyên dáng của người con gái trong tà áo dài trang nhã và đài các. Lá mai màu xanh, nhỏ như lá chanh. Nụ mai thì nhỏ, có màu xanh, thuôn dài mọc thành chùm từ bảy đến mười cái.
Khi nở, hoa mai có năm cánh khoác trên mình một bộ đồ màu vàng rực rỡ mà ai cũng thích. Cánh mai mịn màng, mỏng manh làm cho người ta cảm thấy ấm áp lạ thường. Có thể nói cả cây mai đều có màu vàng chỉ riêng lá màu xanh và phấn hoa thì có màu nâu đỏ. Đặc biệt có những cành mai ghép, hoa nở ra thường có sáu đến mười hai cánh. Mai vàng không có mùi thơm.
Mai thuộc loại dễ trồng và cũng dễ chăm sóc. Người ta thường trồng mai bằng cách chọn những hạt mai nhìn mẩy, phơi khô rồi đem gieo vào đất ẩm, có thể gieo trong chậu hoặc ngoài vườn. Nó ưa đất ẩm và ánh sáng nhưng không chịu được úng. Vì vậy cần trồng cây mai nơi cao ráo và phải thường xuyên tưới nước cho cây. Nếu trồng trong chậu thì cần chú ý bón phân và thay đất hàng năm.
Nếu chăm sóc tốt thì khoảng 5 – 7 năm mai có thể cho hoa. Để có một chậu hoa đẹp thường chú ý cắt nhánh, uống cành, tạo thế để có được những chậu mai có hình dạng độc đáo, mang ý nghĩa sâu sắc, đậm chất triết lí Á Đông. Để mai ra hoa đúng vào ba ngày Tết, người trồng mai thường phải chú ý trút lá và canh thời tiết. Năm nào thời tiết nắng ấm thì trút lá trước Tết khoảng hai mươi lăm ngày. Năm nào rét đậm thì phải trút lá sớm hơn.
Quả thật là vậy, hoa mai lúc nào cũng hiện diện trong nhà của mỗi người cũng giống như mâm ngũ quả không thể thiếu trong ngày Tết. Ý nghĩa của hoa mai là luôn mang lại may mắn cho mọi nhà. Không những thế, mai còn biểu thị cho đức tính trung thực, cho sự lịch lãm, thanh khiết của con người.
Người xưa nói quả không sai, chỉ khi gặp hoạn nạn, khó khăn thì mới biết đâu là bạn thật, đâu là bạn giả. Hoa mai cũng vậy, dù nắng mưa bão bùng, thì mai vẫn ngời ngời một sức sống dai dẳng. Điều đó cũng cho thấy được cây mai cũng rất kiên cường, rất chịu khó dù trong hoàn cảnh nào. Bên cạnh đó hoa mai còn là nguồn khai thác vô tận là một đề tài đặc sắc cho các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.
Hoa mai đã đi vào lòng người dân Việt Nam bằng nét đẹp giản dị, thanh tao và dịu dàng. Cũng vì ý nghĩa của nó nên hoa mai trong ngày Tết đã trở thành một truyền thống đặc sắc của miền Nam nước ta để nó luôn mang lại sự an lành, hạnh phúc và niềm may mắn cho mọi nhà.
Hoa mai là sứ giả của mùa xuân phương Nam. Không ai có thể phủ nhận vẻ đẹp của mai cũng như quên được màu sắc hoàng gia của nó. Hoa mai là niềm tự hào của người dân Việt.
Tham khảo:
Mùa xuân đến mang trong mình sự náo nức, vui tươi của ngày Tết. Ngày Tết lại mang trong mình sức sống của mọi vật, của hoa cỏ, cây cối. Hoa thì hoa nào cũng đẹp, cũng thơm, nhưng không ai lại không khẳng định rằng hoa đẹp nhất, thơm nhất, có sức sống mạnh mẽ nhất vào những ngày Tết.
Hoa ngày Tết từ bao đời nay đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người Hà Nội - người Việt Nam.
Hà Nội vào mùa xuân náo nức lòng người. Tiết xuân se lạnh, những hạt mưa xuân nhẹ nhàng tô thắm cho hoa, làm chồi non lộc biếc nở rộ trong các vườn hoa Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm... Hoa theo các cô hàng hoa tràn vào năm sáu phố phường của thủ đô.
Ngày Tết không thể thiếu hoa đào - một loài hoa đặc trưng cho Hà Nội, biểu tượng cho mùa xuân và sức sống bất diệt của Bắc Việt:
Một đóa đào hoa khéo tốt tươi
Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười.
Một đóa hoa đào mang lại bao nhiêu cảm xúc, niềm vui cho mỗi người. Sau mùa đông giá lạnh, hoa đào lại nở rộ như sưởi ấm lòng người, như báo hiệu cho một sự khởi đầu một năm mới đã đến. Hoa đào có nhiều loại nhưng được biết đến nhiều nhất là đào bích, đào phai, đào mộng tự, đào bạch. Thường hoa đào cũng là một trong các thú chơi của người Hà Nội, người chơi đào thường thích đào Sa Pa vì cái vẻ sù sì rêu mốc của cành, loáng thoáng nụ và hoa, được ẩn trong lá một sức sống mãnh liệt, thắng mọi thử thách.
Kể đến hoa đào, không thể không kể đến hoa mai. Khác với hoa đào là biểu trưng của miền Bắc, hoa mai lại là biểu trưng cho miền Nam, biểu trưng cho sự tinh khiết, thanh bạch của tấm lòng tri âm tri kỉ. Mai cũng có rất nhiều loại: chi mai, bạch mai, mai tứ quý, hồng mai, hoàng mai. Thú chơi mai thật cầu kì, công phu, vì để tôn được vẻ đẹp của mai thật không dễ. Nhưng từ bao đời nay, người chơi mai vẫn tiếp thụ được những nét tinh túy của văn hóa đất Việt - văn hóa phương Đông.
Khoảng từ mồng mười Tết trở đi chính là thời điểm hoa lên ngôi với đủ mọi chủng loại. Trong đó, ngoài đào và mai còn có hoa hồng và hoa cúc. Hoa hồng rất được mọi người yêu thích vì nó là tượng trưng cho một tình yêu vĩnh cửu.
Hoa cúc có rất nhiều loại và đậm đà hương sắc như: cúc đại đóa, bạch mi, bạch khổng tước, hồng tử kì, cúc gấm, cúc đồng tiền, cúc ngũ sắc... Trong các loại cây hoa, cúc được xếp hàng thứ tư trong tứ quý (tùng, trúc, mai, cúc). Cúc ưa nhìn là bởi sự giản dị, là bởi vẻ đẹp đằm thắm lưu luyến lòng người. Cúc được ví với tính cách của người quân tử vì vẻ chịu đựng phong trần, thử thách của sương sa, tuyết lạnh mà hoa vẫn tươi và bền bỉ cùng thời gian. Không rung động sao được trước tính cách của một loài hoa đáng để mọi người suy ngẫm. Chẳng thế, các cụ nhà ta thường chơi hoa cúc, uống trà cúc. Chơi cúc và thưởng thức cúc với sự ngưỡng mộ tri âm tri kỉ.
Theo thông lệ hàng năm, vào chiều ba mươi Tết, tôi lại cùng bố mẹ ra chợ Bưởi để mua hoa. Phiên chợ Bưởi những ngày giáp Tết thật đông vui nhộn nhịp. Hoa và người như hòa quyện, xen vào nhau trên con đường tấp nập, nét mặt ai nấy đều hồ hởi, thư giãn. Chứng kiến sự say mê và nâng niu hoa của mọi người, lòng tôi lại dấy lên một suy nghĩ: cái đẹp luôn luôn tồn tại, không chỉ trong hoa, mà còn ở người chơi hoa. Đó chính là những đức tính, tâm hồn cao đẹp của con người Việt Nam ta.
em hãy thuyết minh về cây mai ngày tết
Refer
Khác với sự nhẹ nhàng, đằm thắm của hoa đào, hoa mai mang trong mình cái nét cao sang, duyên dáng khiến bất cứ ai cũng phải mê mẩn.
Cây mai có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo một cuốn sách của nhà Minh chép rằng: “Đắc Kỷ ái lãm hàn mai, Trụ tằng ngự tuyết đồng lãm chi”. Nghĩa là Đắc Kỷ thích ngắm hoa mai trong giá lạnh. Trụ vương thường đội tuyết cùng ngắm. Như vậy, cách đây đã hơn 3000 năm, cây mai đã có mặt trên đất nước Trung Quốc. Ở Việt Nam, hoa mai phân bố nhiều nhất tại những khu rừng thuộc dãy Trường Sơn, các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng cho tới Khánh Hòa và các vùng núi ở đồng bằng sông Cửu Long.
Khi nhắc đến hoa mai người ta có lẽ nhớ đến nhiều hơn chính là cái sắc vàng rực rỡ. Khó ai mà có thể ngờ được cái màu xanh vàng nhẹ của chiếc nụ chúm chím nhỏ xinh nay mai xòe nở lại đẹp lạ kì đến thế. Năm cánh hoa xòe nở mỏng manh, mềm mại, uốn một đường cong rất nhẹ. Hoa mai nhỏ xinh rực rỡ như đọ cùng sắc nắng, tươi cùng đất trời. Sắc vàng quyện cùng sắc đỏ của những đài hoa tí xíu càng làm nên nét thắm tươi của hoa mai.
Miền Nam không có mùa đông quanh năm có nắng thích hợp cho mai vàng nở rộ, tỏa sắc khoe hương. Chính vì vậy mà mai được mọi người miền trong hết sức yêu mến, ưa chuộng. Mỗi cái tết ở đây bên cạnh bánh chưng, mâm ngũ quả cầu dừa đủ xoài sung,... thì mai hiện diện như sự may mắn đến gõ cửa nhà gia chủ.
Ai cũng hi vọng hoa mai có thể khoe sắc vàng đẹp nhất vào những ngày đầu năm mới, khởi đầu mới. Và khi hoa mai tàn phai nó vẫn để lại một dấu ấn khó phai. Từ những cánh hoa héo úa chuẩn bị về với đất mẹ là những hạt cườm li ti sẫm màu óng ánh dưới cái nắng dịu ngọt.
Bên cạnh sắc vàng phổ biến ấy còn có mai trắng hay còn gọi là bạch mai. Bạch mai tựa như một cô gái đỏng đảnh không dễ tìm mà cũng chẳng dễ trồng. Mới đầu nó mang chút phớt hồng nhưng khi xòe nở lại có màu trắng muốt, tinh khôi. Mỗi chùm hoa nhỏ xinh điểm xuyết lên những nhành cây mềm mại, duyên dáng.
Hương hoa không nồng nàn mà thanh thanh, dịu dàng phảng phất trong gió nhẹ. Dẫu mang vẻ đẹp mong manh là vậy, nhưng nó không hề yếu ớt. Trời càng khắc nghiệt, càng giá lạnh mai trắng lại càng có sức sống bền bỉ, dẻo dai. Có lẽ vì vậy mà không ít người say mê, trân trọng, nâng niu vẻ đẹp của cô gái đỏng đảnh này.
Hoa mai không phải chỉ phân chia bởi hai sắc trắng và vàng, mỗi vùng, mỗi loại hoa sẽ mang những sắc độ, hương thơm, nét quyến rũ riêng biệt. Tuy nhiên không ai có thể phủ nhận được vẻ đẹp, dáng nét rất riêng mà hoa mai được tạo hóa dày công chăm chút. Từ xưa đến nay hoa mai luôn được xem như nguồn thi hứng dồi dào, là hình tượng đẹp trong văn chương, biểu tượng cho sức sống mùa xuân.
Trong tiết đông giá lạnh, trong khi vạn vật như đang run rẩy, co cụm, úa tàn, thì hoa mai vẫn tinh khôi bừng nở bên những lộc non mơn mởn. Với dáng vẻ thanh tao của mình, khí phách của người quân tử được ví với hoa mai. Các nhà nho gặp thời loạn lạc thường ví mình như cành mai nở trong gió đông để giữ mình thanh sạch. Còn vóc dáng của hoa mai thì được ví như người con gái quyền quý, khuê các.
Hoa mai đã đi vào đời sống tinh thần của con người Việt Nam, là biểu tượng không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về. Vì vậy cần nâng niu, trân trọng, thấy được ý nghĩa của hoa mai trong đời sống.
refer
Khác với sự nhẹ nhàng, đằm thắm của hoa đào, hoa mai mang trong mình cái nét cao sang, duyên dáng khiến bất cứ ai cũng phải mê mẩn.
Cây mai có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo một cuốn sách của nhà Minh chép rằng: “Đắc Kỷ ái lãm hàn mai, Trụ tằng ngự tuyết đồng lãm chi”. Nghĩa là Đắc Kỷ thích ngắm hoa mai trong giá lạnh. Trụ vương thường đội tuyết cùng ngắm. Như vậy, cách đây đã hơn 3000 năm, cây mai đã có mặt trên đất nước Trung Quốc. Ở Việt Nam, hoa mai phân bố nhiều nhất tại những khu rừng thuộc dãy Trường Sơn, các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng cho tới Khánh Hòa và các vùng núi ở đồng bằng sông Cửu Long.
Khi nhắc đến hoa mai người ta có lẽ nhớ đến nhiều hơn chính là cái sắc vàng rực rỡ. Khó ai mà có thể ngờ được cái màu xanh vàng nhẹ của chiếc nụ chúm chím nhỏ xinh nay mai xòe nở lại đẹp lạ kì đến thế. Năm cánh hoa xòe nở mỏng manh, mềm mại, uốn một đường cong rất nhẹ. Hoa mai nhỏ xinh rực rỡ như đọ cùng sắc nắng, tươi cùng đất trời. Sắc vàng quyện cùng sắc đỏ của những đài hoa tí xíu càng làm nên nét thắm tươi của hoa mai.
Miền Nam không có mùa đông quanh năm có nắng thích hợp cho mai vàng nở rộ, tỏa sắc khoe hương. Chính vì vậy mà mai được mọi người miền trong hết sức yêu mến, ưa chuộng. Mỗi cái tết ở đây bên cạnh bánh chưng, mâm ngũ quả cầu dừa đủ xoài sung,... thì mai hiện diện như sự may mắn đến gõ cửa nhà gia chủ.
Ai cũng hi vọng hoa mai có thể khoe sắc vàng đẹp nhất vào những ngày đầu năm mới, khởi đầu mới. Và khi hoa mai tàn phai nó vẫn để lại một dấu ấn khó phai. Từ những cánh hoa héo úa chuẩn bị về với đất mẹ là những hạt cườm li ti sẫm màu óng ánh dưới cái nắng dịu ngọt.
Bên cạnh sắc vàng phổ biến ấy còn có mai trắng hay còn gọi là bạch mai. Bạch mai tựa như một cô gái đỏng đảnh không dễ tìm mà cũng chẳng dễ trồng. Mới đầu nó mang chút phớt hồng nhưng khi xòe nở lại có màu trắng muốt, tinh khôi. Mỗi chùm hoa nhỏ xinh điểm xuyết lên những nhành cây mềm mại, duyên dáng.
Hương hoa không nồng nàn mà thanh thanh, dịu dàng phảng phất trong gió nhẹ. Dẫu mang vẻ đẹp mong manh là vậy, nhưng nó không hề yếu ớt. Trời càng khắc nghiệt, càng giá lạnh mai trắng lại càng có sức sống bền bỉ, dẻo dai. Có lẽ vì vậy mà không ít người say mê, trân trọng, nâng niu vẻ đẹp của cô gái đỏng đảnh này.
Hoa mai không phải chỉ phân chia bởi hai sắc trắng và vàng, mỗi vùng, mỗi loại hoa sẽ mang những sắc độ, hương thơm, nét quyến rũ riêng biệt. Tuy nhiên không ai có thể phủ nhận được vẻ đẹp, dáng nét rất riêng mà hoa mai được tạo hóa dày công chăm chút. Từ xưa đến nay hoa mai luôn được xem như nguồn thi hứng dồi dào, là hình tượng đẹp trong văn chương, biểu tượng cho sức sống mùa xuân.
Trong tiết đông giá lạnh, trong khi vạn vật như đang run rẩy, co cụm, úa tàn, thì hoa mai vẫn tinh khôi bừng nở bên những lộc non mơn mởn. Với dáng vẻ thanh tao của mình, khí phách của người quân tử được ví với hoa mai. Các nhà nho gặp thời loạn lạc thường ví mình như cành mai nở trong gió đông để giữ mình thanh sạch. Còn vóc dáng của hoa mai thì được ví như người con gái quyền quý, khuê các.
Hoa mai đã đi vào đời sống tinh thần của con người Việt Nam, là biểu tượng không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về. Vì vậy cần nâng niu, trân trọng, thấy được ý nghĩa của hoa mai trong đời sống.
Cách xây dựng nhân vật trong văn bản Lão Hạc
có tính bộc lộ cảm xúc chân thực của nv