Văn bản ngữ văn 9

Phạm Ngọc An
Xem chi tiết
Kiều Linh
19 tháng 12 2017 lúc 20:51

Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa Nguyễn Thành Long kể về nhân vật chính với tình cảm yêu mến và khâm phục. Đó là anh thanh niên một mình làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai ngàn mét. Vẻ đẹp trong cách sống, trong tâm hồn và những suy nghĩ của anh tiêu biểu cho cách sống, cách suy nghĩ của thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn dân tộc ta vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Qua hình ảnh người thanh niên một mình làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động mới đang ngày đêm âm thầm cống hiến cho nhân dân, cho Tổ quốc.

Nội dung truyện có thể tóm tắt như sau: Một họa sĩ già trước khi nghỉ hưu đã đi thực tế vùng cao. Tình cờ, ông ngồi cùng hàng ghế với cô kĩ sư trẻ người Hà Nội lên nhận công tác tại Lai Châu. Qua hai ngày, họ đã làm quen với nhau. Khi đến Sa Pa, bác tài cho xe nghỉ để lấy nước, nhân tiện giới thiệu với họa sĩ và cô gái nhân vật đặc biệt trên đoạn đường này để họa sĩ vẽ chân dung.

Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Ba người gặp nhau trong một thời gian ngắn ngủi, giữa khung cảnh núi non hùng vĩ và tĩnh lặng của Sa Pa. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút nhưng bước đầu họ đã hiểu nhau và hai người khách đã nhận biết được từ anh thanh niên bao điều bổ ích. Tính cách của nhân vật này được tác giả miêu tả qua cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa anh và hai người khách lạ: họa sĩ già và cô kĩ sư nông nghiệp.

Anh thanh niên trông coi trạm khí tượng được giới thiệu qua lời kể của bác lái xe. Bác lái xe gọi anh là người cô độc nhất thế gian vì anh sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo. Bạn bè của anh toàn là những vật vô tri : máy đo gió, đo nắng, đo mây, đo nhiệt độ… Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn yêu đời, vẫn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Anh biết làm chủ, biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng, anh xuống đường tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện và giúp đỡ họ cho vơi bớt nỗi cô đơn.

Thái độ nồng nhiệt, hiếu khách của anh đã gây được thiện cảm đối với mọi người ngay từ lúc đầu. Anh biếu bác lái xe gói củ tam thất để mang về cho người vợ mới ốm dậy. Anh mừng rỡ đón quyển sách bác mua hộ. Niềm vui được gặp gỡ dào dạt trong lòng anh, bộc lộ qua nét mặt và từng cử chỉ.

Bác lái xe giới thiệu với anh những người khách mới: “Đây, tôi giới thiệu với anh một họa sĩ lão thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông nghiệp”. Anh vui vẻ mời hai người lên nhà chơi. Anh trồng một vườn hoa trước nhà để làm đẹp cho cuộc sống của mình và bằng chính những bông hoa xinh tươi, anh bày tỏ lòng hiếu khách. Khi khách đến, anh ra vườn cắt một bó hoa, rất tự nhiên trao cho cô gái mới quen. Trò chuyện với khách, anh đã nói lên những suy nghĩ chân thành của mình.

Người thanh niên ấy không những đáng yêu ở cách sống mà còn đáng yêu vì những điều anh suy nghĩ và cảm nhận. Ban đầu, lúc mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh đã nghĩ ra kế lăn khúc cây chặn đường xe đi để được gặp người, được nói chuyện trong giây lát.

Nhưng đến bây giờ, khi bày tỏ quan niệm thế nào là người cô độc, anh lập luận thật sắc sảo: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Anh tâm sự với cô kĩ sư trẻ: “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà!”.

Anh giải thích về nỗi nhớ người của mình bằng những lời nói mộc mạc, chân thành: “Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?… Bác lái xe đi về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không phải giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hàng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác chẳng “thèm” người là gì?”.

Thực ra, anh thanh niên không phải là loại người đặc biệt, không biết nhớ người, nhớ nhà, mà là anh cố nén nỗi nhớ da diết ấy để hoàn thành nhiệm vụ, đóng góp một phần sức lực nhỏ bé với quê hương, đất nước và để xứng đáng với người cha đang đối đầu với giặc Mĩ xâm lược trong chiến trường miền Nam.

Tuy công việc của anh khó khăn, vất vả và rất quan trọng nhưng anh vẫn cảm thấy nó nhỏ bé, bình thường so với công việc của người khác. Chúng ta hãy lắng nghe anh kể về công việc âm thầm của mình: “Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác… Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…”

Anh kể về lần nhờ phát hiện ra một đám mây khô mà anh đã góp phần cùng không quân ta hạ được máy bay phản lực của Mĩ. Anh sung sướng nói với ông họa sĩ rằng: “Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”.

Người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy cũng rất khiêm tốn. Anh ngượng ngùng khi thấy ông họa sĩ già phác thảo chân dung của mình vào cuốn sổ tay. Anh giới thiệu cho ông những người đáng để vẽ hơn mình: Ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân toàn miền Bắc. Anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập một bản đồ sét: “Nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một năm… Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm”.

Sở dĩ anh có cách suy nghĩ và hành động như thế là vì anh yêu mến, tự hào về mảnh đất quê hương: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ tới chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.

Yêu con người, yêu cuộc sống, quê hương, đam mê công việc… tình cảm ấy đã trở thành sức mạnh, thành điểm tựa để anh thanh niên trông coi trạm khí tượng hăng say làm việc và học tập.

Nhân vật anh thanh niên trên trạm khí tượng Yên Sơn chỉ là một trong muôn vạn người trẻ tuổi đang cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà văn Nguyễn Thành Long dường như đã dồn tình cảm vào ngòi bút để xây dựng nên một hình tượng văn học vừa cụ thể, vừa khái quát, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc

Bình luận (1)
Dương Phương Trà
19 tháng 12 2017 lúc 23:11

Bài làm

Khi nói đến cái lặng im và lặng lẽ của Sa Pa thì người ta sẽ nghĩ ngay đến việc nghỉ ngơi. Nhưng Nguyễn Thành Long lại cho ta biết về những con người đang âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết sức mình cho đất nước, để rồi ông viết nên Lặng lẽ Sa Pa. Anh thanh niên trong truyện ngắn này là người tiêu biểu, đại diện cho lớp người lao động thầm lặng ấy.

Anh không xuất hiện từ đầu tác phẩm, không trực tiếp nhận xét về bản thân mình. Nguyễn Thành Long đã cho anh thanh niên – nhân vật chính của tác phẩm – tự bộc lộ vẻ đẹp của mình. Qua lời giới thiệu của bác lái xe: anh sống cô độc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét, làm công tác khí tượng kiêm vật ụ địa cầu, sống giữa rừng xanh, mây trắng, bốn bề chỉ toàn là cỏ cây. Dường như người đọc không thể hình dung một cách cụ thể con người của anh. Nhưng khi anh xuất hiện, ông họa sĩ sau khi nghe lời giới thiệu thì bỗng như đứng sững sờ, xúc động khi thấy “người con trai bé nhỏ, nét mặt rạng ngời”. Anh thanh niên quả là một người đầy bản lĩnh, có như thế thì mới dám sống và làm việc ở một nơi thiếu bóng người như thế.

Cuộc trò chuyện ngắn ngủi giữa anh thanh niên, ông họa sĩ và cô kĩ sư nông nghiệp đã đưa người đọc đến gần hơn tâm hồn và tính cách của anh thanh niên. Hàng ngày, anh thanh niên làm việc với đủ loại máy đo mưa, máy nhập quang kí đo ánh sáng mặt trời, cái máy đo gió và cái máy đo chấn động của vỏ trái đất. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng và báo về “nhà” bằng máy bộ đàm. Công việc ấy cần phải chính xác và đúng giờ.

Anh còn bảo: “Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất”. Công việc tuy vất vả nhưng anh thanh niên đã vượt qua tất cả và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cuộc sống của anh hòa vào cuộc sống của mọi người. Anh rất vui và tự hào khi mình đã góp phần phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta bắn hạ máy bay của Mĩ. Những công việc tưởng chừng như đơn giản và thầm lặng ấy của anh đã góp phần rất lớn trong việc đự báo thời tiết để sản xuất. Nhờ hăng say trong công việc, anh không thấy cô đơn khi làm việc một mình ở vùng cao hẻo lánh và cảm thấy vui khi hoàn thành tốt công việc của mình.

Anh còn là một người hiếu khách: rót nước mời ông họa sĩ và cô kĩ sư, cắt hoa tặng cô gái và tặng một làn trứng cho bác lái xe, ông họa sĩ và cô gái trẻ. Những món quà ấy tuy không đáng là bao nhưng thấm đượm tình nghĩa, giàu lòng hiếu khách. Anh thanh niên không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, quan tâm đến người khác, anh còn có một lối sống ngăn nắp, mẫu mực. Bác họa sĩ lấy làm ngạc nhiên khi bước vào nhà của anh. Trước khi đến đây, bác đã tưởng tượng ra một căn nhà chưa kịp quét, một tấm chăn chưa kịp gấp nhưng hiện ra trước mắt bác lại là một căn nhà ba gian sạch sẽ, tất cả mọi thứ được để ngăn nắp. Anh hái hoa tặng khách. Hoa anh trồng đang khoe sắc. Nào hoa đơn, thược dược, và các loại rau. Điều đó đã làm những vị khách mới này bất ngờ. Ngoài những công việc này anh còn nghiên cứu sách báo. Anh có thể dùng số tiền mua sách vở cho việc sắm sửa các vật dụng khác phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhưng anh mừng quýnh lên với những cuốn sách anh nhờ bác lái xe mua hộ. Và anh không hề cảm thấy cô đơn vì đã có sách làm bầu bạn. Anh nói với cô kĩ sư trẻ: “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà”. Bởi vậy, anh không cảm thấy cô đơn khi sống một mình ở vùng cao hẻo lánh.

Anh khiêm tốn khi thấy ông họa sĩ vẽ mình, anh thấy mình chưa xứng đáng để được vẽ nên anh đã giới thiệu cho ông họa sĩ một số người khác thích hợp hơn mình. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, luôn tìm cách thụ phấn cho su hào để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao. Không chỉ giới thiệu ông kĩ sư, anh còn cho ta biết về anh cán bộ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu riêng bản đồ sét cho nước ta. Anh luôn nghĩ cho mọi người. Chính vì thế nên ông họa sĩ phải thốt lên: “Chao ôi, bắt gặp được một người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác”.

Dù được nhìn qua suy nghĩ của ông họa sĩ, cô kĩ sư nhưng chúng ta cũng hình dung được những nét đẹp đáng quí ở anh thánh niên. Anh có một cuộc sống thật đáng sống và một tâm hồn phong phú. Anh luôn tạo ra cái đẹp ở quanh mình, dù đó là vùng cao xa xôi. Anh thanh niên là một hình tượng điển hình cho chúng ta học tập. Qua câu chuyện, Nguyễn Thành Long muốn nhắn nhủ chúng ta hãy biết sống vì mọi người và sống hữu ích cho cuộc đời. Hãy làm những thanh niên tình nguyện, những cán bộ tình nguyện công tác ở vùng cao, đem tài năng của mình để phục vụ đất nước. Đây là vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng trong cuộc sống.

Bình luận (2)
Thảo Nguyên
Xem chi tiết
Trần Ngân Anh
21 tháng 12 2017 lúc 13:17

Tình thương của ông Hai đối với làng, với nước là vô cùng son sắt. Làng tuy là nơi ông gắn bó, ông mến thương, là dân tộc anh em cùng một cội, trong tim cùng cháy một ngọn lửa yêu nước nồng thắm. Ấy thế, Làng theo Tây là Làng bán nước, bán dân tộc bán cả tình anh em. Thương thì thương nhưng bán nước là phải thù, là phải lên án.

=>> Tớ là người mới, hi vọng câu trả lời giúp ích cậu phần nào :)) 1 SP để cùng support nhau nhé :)

Bình luận (0)
Đỗ Ngọc Diệp
9 tháng 12 2018 lúc 15:27

Ý nghĩa nhan đề "Chiếc lược ngà":

- “Chiếc lược ngà” là một nhan đề hay, thể hiện sâu sắc nội dung của tác phẩm.
- Đó là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng.
- Chọn hình ảnh “Chiếc lược ngà” làm nhan đề cho tác phẩm, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã bộc lộ tài năng của mình trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý nghĩa:
+ Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ.
+ Với ông Sáu, chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng bởi nó chứa đựng tình yêu, nỗi nhớ thương của ông đối với đứa con gái và làm dịu đi nỗi day dứt, ân hận vì đã đánh con khi nóng giân…
=> Với nhan đề này, nhà văn không chỉ nói tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình

Bình luận (1)
Gia Hằng Lý
Xem chi tiết
Mai Quỳnh Trang
20 tháng 12 2017 lúc 21:19

Năm tháng của tuổi học trò vẫn còn dài.nhưng người thầy của tôi năm sưa đã già rồi.tôi vẫn nhớ những kỉ niệm về thầy với tôi.Những kĩ niệm đó không sao tôi quên được. Thầy tôi người đã mang lại tri thức cho tôi,đã dắt tôi đi trên con đường học vấn. Cũng nhờ cuộc thi này tôi với bày tỏ được những tâm sự của trò đối với thầy.Tôi mong thầy tôi sẽ đọc được những dòng chư chân thành và sâu sắc này.

Thầy tôi tên Nguyễn Văn Hùng. Cái tên đó tuy không hay cho lắm nhưng nó mang đậm ý nghĩa

Trong lòng tôi và cũng như trong lòng của bao nhiêu học trò mà thầy đã từng dạy qua.Tôi yêu thầy từ những bài học đầu tiên mà thầy dạy cho tôi,những câu chuyện thầy kể cho tôi nghe và cả những lần bị thầy trách phạt.Phải chăng những điều hay lẽ phải, những nét đẹp trong tâm hồn của mỗi con người đều được khơi nguồn từ tay những người hướng đạo đó. Vâng! Những con người đó đả đem hết tâm huyết của mình để nuôi dạy một đàng trẻ thơ.Thầy đã trau chuốt dẫn dắt những đứa trẻ vượt qua chông gai và khó khăn để kiếm được miếng ăn sau này. Nhiều người nói rằng:

"Ngề nhà giáo là nghề chèo đò, phải đưa được những con đò qua được bờ sông bên kia an toàn"

Đúng vậy! Để những đứa con đó qua bờ bên kia an toàn.Những người lái đò phải vất vả để đưa họ qua song nhưng lại có một số người khi qua sông rồi họ lại trở mặt. Những con người như thế chúng ta có suy nghĩ gì về họ. Thầy tôi cũng vậy. Thầy đã kể cho chúng tôi nghe về những con người khi qua được bờ bên kia lại trở mặt với thầy. Thầy nói mà nước mắt thầy cứ rơi. Ôi! Tôi thương Thầy quá!

Thầy là những người tri thức. Thầy dẫn dắt chúng tôi từng bước một.

Ôi thầy kính mến của con ơi!

Đã bao lần con muốn nói lên một lời cảm ơn chân thành đối với thầy. Đã bao lần con muốn ôm lấy thầy

Và hôn vào đôi má của thầy một nụ hôn thật ấm áp.Nhưng thầy ơi !Đó chỉ là ước muốn mà thôi và chắc rằng thầy cũng không quen như thế đâu thây nhỉ. Ngầy tháng học trò đang trôi qua lần lần. Lớp bụi thời gian cứ dày đặc mải và khoảng thời gian con ở bên thầy cũng đang ngắn lại thầy ạ!

Thây ơi! Thầy có biết con quý thây ngiều lắm không? Thầy đã cứa sống được mạng của con.Kỉ niệm đó con không bao giờ quyên được thầy ạ!

Con vẩn còn nhớ năm ấy,lớp mình được phân công lao động phát cỏ bên dòng sông gần trường. thầy đả dặn tụi con là không được nghịch phá gần bờ.Nhưng cái tính của con hiếu thắng cho nên con đã bỏ lời thầy dặn ngoài tai.lúc đó rời nắng chói chang,con rủ hai bạn cùng tổ lao động xuống suối tắm cho mát. Hai bạn ấy cỏ vẻ ngại ngùng và con đả bảo thẳng vào mặt 2 bạn ấy con nói

Các cậu sợ thì tránh ra để tớ xuống tắm một mình

Nói song con xuống tắm nhưng vì dòng nước xiết quá nên con bị trôi đi ra xa, các bạn thấy thế báo với thầy và thầy đã cứa con. Cũng sau vụ đó thầy ốm nặng phải lên viện nằm mấy ngày liên.Lúc đó con sợ lắm con sợ nếu thầy có việc gì thì con sẽ hối hận cả đời.

Cũng nờ việc đó mà con quý thầy nhiều hơn. Hết năm lớp 5 gia đình con chuyển về Đăklăk. Con cũng phải chia tay thầy.Cũng từ đó con đã mất dấu tích của thầy.

Hôm nay con viết nên những dòng chử này mong ông trời có thể cho thầy tôi đọc được.Con cầu mong cho thầy sức khỏe dồi dào.Laị một mùa hiến chương đã đến con chúc gia đình thầy hạnh phúc.và con muốn nói với thầy rằng:

Con yêu thầy !

Bình luận (0)
Bình Minh
Xem chi tiết
Hiiiii~
19 tháng 12 2017 lúc 15:02

Cũng như bao truyền thống khác, tinh thần yêu nước là một nét đặc sắc trong văn hóa lâu đời của nước ta, nó được thể hiện từ xưa đến nay và đi sâu vào từng hành động, ý nghĩ của mỗi con người. Từ xa xưa, những tinh thần yêu nước được được bộc lộ rõ nhất ở các tấm gương anh hùng như hai bà Trưng, bà triệu, Trần Hưng Đạo v.v... Nhưng đó là ở thời chiến tranh. Cũng bây giờ – thời bình - thời kì hiện đại hóa với những máy móc, dụng cụ đang ngày càng hữu dụng, thiết thực. Xã hội ngày một tiến lên, mọi thứ đã thay đổi nhiều, chỉ riêng tấm lòng yêu nước của mỗi cá nhân vẫn không bị mờ phai. Trong cuộc sống những tư tưởng, việc làm giúp phát triển kinh tế nước nhà phần nào là tinh thần yêu nước.

Bình luận (0)
Long Hán
24 tháng 3 2023 lúc 5:23

Chụi

Bình luận (0)
tho pham
Xem chi tiết
Đặng Thị Huyền Trang
18 tháng 12 2017 lúc 20:40
mãng cầu (Nam Bộ) - na anh hai (Nam Bộ) - anh cả đậu phộng (Nam Bộ) - lạc chén (Nam Bộ) – bát muỗng (Nam Bộ) - thìa ghe (Nam Bộ) – thuyền cây viết (Nam Bộ) - bút răng (Bắc Trung Bộ) - sao tía, ba (Nam Bộ) – bố mô, rứa (Trung Bộ) – đâu, thế nà
Bình luận (1)
Hoàng Thị Thanh Huyền
Xem chi tiết
nguyễn thu phương
Xem chi tiết
nguyễn thu phương
Xem chi tiết
Đặng Thị Huyền Trang
18 tháng 12 2017 lúc 20:45

Chúc bạn học tốt

Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp". Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến vì dung hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính "đa nghi", nàng đã "giữ gìn khuôn phép" không để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa", sống giũa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng "được hai chữ bình yên": nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ... Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "... mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được".

Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:

... "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."

(Chinh phụ ngâm)

Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.

Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa cọn trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.

Qua năm sau, "việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về. Thế nhưng, Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã "máng nhiếc" và "đánh đuổi đi". Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời "bày tỏ" của vợ, mọi sự "biện bạch" của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là người vợ "mất nết hư ân”. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng", mãi mãi soi tỏ với dời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ". Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa !". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con "rày xin chén nước cho người thác oan" (Truyện Kiều).

Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện... là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh... yên phận hẩm hiu, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa? nhưng âm - dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.

Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhung áng văn "Chuyện người con gái Nam Xương" giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài "Lại bài viếng Vũ Thị”:

... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,

Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."

Bình luận (0)
Hùng Lê
Xem chi tiết
nguyen minh ngoc
18 tháng 12 2017 lúc 16:34
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo trước cách mạng tháng 8/1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Hai, nhân vật chính của truyện rất yêu mến và gắn bó với làng quê của mình. Đặc điểm trên đã thể hiện rõ qua các trạng thái tình cảm khác nhau của ông với làng.
Ông Hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ Dầu của mình bằng một tình yêu đặc biệt. Đấy là nơi tổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn rau cắt rốn của ông. Do vậy, ông yêu làng này bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc và bền vững như tình yêu của một nông dân gắn bó với quê hương, nói cụ thể hơn là gắn bó với cảnh vật và con người của mảnh đất quê hương ấy. Bởi thế, mỗi lần nói đến làng chợ Dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, náo nức lạ thường. “Hai con mắt sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động”... Ông yêu tất cả những cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự hào: ”Nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh”, đường trong làng ”toàn lát đá xanh, trời mưa đi, bùn không dính đến gót chân”, “phơi thóc rơm thì tốt thượng hạng”. Đôi khi ông cường điệu, ông tự hào mãnh liệt đến cả cái sinh phần của cụ Thượng “vườn hoa cây cảnh nom như động ấy”.
Mãi đến sau cách mạng thánh Tám, ông mới nhận ra chính cái dinh cơ của quan Tổng đốc ấy đã đem lại bao nỗi khổ ải cho dân làng. Có người bệnh, có người chết, bao nhiêu người làm việc không công. Riêng phần ông đã bị một đống gạch đổ vào bại một bên hông. Cả cái chân ông sau này khập khiểng, đi đứng không ngay ngắn được cũng là do cái lăng tai ác ấy. Dưới mắt ông, cái gì của làng chợ Dầu cũng lớn, cũng đẹp hơn hẳn những thứ của thiên hạ. Từ cái phòng thông tin triển lãm “sáng sủa và rộng rãi nhất vùng”, đến cái chòi phát thanh trong làng, cả đến cây lúa ngoài đồng... Cái gì của làng cũng làm ông say mê, hãnh diện, tự hào.
Lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, lòng yêu mến làng quê của ông Hai đã có những chuyển biến rõ rệt. Nếu trước kia, ông hãnh diện vì làng chợ Dầu giàu có, tươi đẹp, cái sinh phần của cụ Thượng tốt tươi, mới lạ, thì sau cách mạng tháng Tám, nhờ giác ngộ chính trị, ông lại tự hào về không khí cách mạng sôi nổi ở làng ông. Từ những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những giao thông hào chiến đấu, ông đã bộc lộ niềm sung sướng của mình truớc những sự thay đổi đó. Sự xuất hiện của những phòng thông tin, chòi phát thanh, đúng là cuộc đời, số phận ông thực sự gắn liền với những thăng trầm của làng Dầu yêu dấu của ông.Đối với ông Hai khi ấy, tình yêu làng mạc và tình yêu đất nước đã chan hoà làm một trong tình cảm và nhận thức của ông.
Những ngày đầu kháng chiến, ông luôn luôn tự hào về việc làng Dầu của mình đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ngay bản thân ông cũng đã nhiệt tình cùng với mọi người đi đào đường, đắp ụ để cản giặc và ông tha thiết muốn ở lại làng để trực tiếp chiến đấu. Nhưng sau đó ông Hai phải theo vợ con tản cư đến một làng khác. Nỗi nhớ làng không nguôi, ở nơi tản cư, ông đã tin tức về kháng chiến. Không đọc được báo, ông đã tìm hỏi tin cho bằng được. Trước tin một em bé ở ban tuyên truyền xung phong dũng cảm cắm cờ lên Tháp Rùa; một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, ông Hai cứ tấm tắc khen: “Khiếp thật! Tinh là những người giỏi cả”. Ngoài việc khâm phục những người anh hùng trong kháng chiến, ông Hai còn hả hê trước thất bại của địch: Chỗ này giết được tên Pháp với hai tên việt gian, chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp “ruột gan của lão cứ múa cả lên, vui quá”.
Nhưng không có gì đâu đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, “cổ ông Hai cứ nghẹn lại, da mặt tê rân rân”. “Ông lặng đi tưởng như không bao giờ thở được”. Niềm tự hào bao lâu bỗng chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, “ông nằm vật ra giường”, nước mắt ông cứ tràn ra. Khi nhìn đàn con, chưa bao giờ ông đau đớn đến thế, nghĩ rằng: “Chúng nó là trẻ con làng việt gian đấy ư?”
Ông Hai căm ghét bọn phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông Hai bế tắc nhưng nhất định không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông.
Từ đau đớn nhục nhã như thế, ông Hai lại biết bao vui sướng khi nhận được tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt.
Bình luận (0)
Đặng Thị Huyền Trang
18 tháng 12 2017 lúc 20:50

Chúc bạn học tốt

Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một tác phẩm nổi tiếng viết về người nông dân trong kháng chiến. Hình ảnh ông Hai, nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong những ngày đầu mới tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu thủy chung với kháng chiến, với Bác Hồ.

Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai là một nông dân nghèo khổ chất phác. Cũng như bao người khác, cuộc đời ông đã trải qua những giai đoạn sóng gió, đau khổ tuyệt vọng. Ông hai đã bị bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại, đó là một điều xót xa cho một người yêu làng như ông Hai. Có làng, có nhà, có cửa mà ông phải phiêu dạt lang thang hết nơi này đến nơi khác. Cuộc sống đói nghèo cực khổ nơi đất khách quê người rồi cũng chấm dứt. Sau mười mấy năm trời lênh đênh ông cũng tìm cách về lại làng mình, về đến làng, cuộc sống đói nghèo vẫn không chấm dứt.

Không những phải chịu cuộc sống đói nghèo cùng cực, người nông dân như ông Hai phải phục dịch cho bọn hương lí. Ông Hai bị gạch đổ bại một hông trong một lần phu phen tạp dịch. Cuộc sống thật tối tăm cùng cực, ông bị vùi dập đủ đường. Sống một cuộc sống như thế, tấm lòng của những người nông dân như ông Hai vẫn hướng về làng mình, vẫn yêu làng mình sâu sắc. Với ông Hai, làng Chợ Dầu đã trở thành máu mủ ruột rà. ông hãnh diện với làng ông, ông khoe làng Chợ Dầu với mọi người ở mọi nơi mà ông đến. Nhiều lúc ông nói về làng mình cho đỡ nhớ. Người đọc thấu hiểu tình cảm sâu lắng của ông Hai với nơi chôn nhau cắt rốn. Ông khoe làng ông có cái sinh phần của viên tổng đốc có bề dày truyền thống, có cảnh đẹp nổi tiếng cả vùng. Tất cả những gì thuộc về làng đối với ông Hai đều thiêng liêng gắn bó. Do đó, mặc dù cái sinh phần đã gieo rắc cho ông, cho bao người khác tai họa song ông vẫn cảm thấy tự hào. Dường như trong tâm tríông Hai cái sinh phần đó là sức lực của cả làng, và có một chút rất riêng của bản thân ông. Tình yêu làng của ông Hai thật giản dị, chất phác.

Sau cách mạng, ông vẫn khoe làng mình nhưng ông khoe làng có cái nhà thông tin rộng rãi, có chòi phát thanh, khoe làng mình giàu có, trù phú... Ông không khoe cái sinh phần cụ Thượng nữa, bởi bây giờ ông đã hiểu được nhiều điều. Ông đã được tiếp xúc với cách mạng, với đấu tranh, vẫn là khoe làng, vẫn là tình yêu làng của con người chất phác, hiền lành, song trong tình yêu làng có một tình cảm khác đang trỗi dậy, lớn mạnh hơn, cao cả hơn, thiêng liêng hơn.

Ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, ông Hai có cái bỡ ngỡ, lạ lẫm ban đầu của người nông dân chất phác, vốn quen bị vùi dập nay tiếp xúc với đấu tranh, với chính trị. Cách mạng tháng Tám đến với những người như ông Hai mang theo một sự thay đổi về cuộc đời, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong họ. Ông đi theo cách mạng với tất cả lòng nhiệt thành, say mê, hăm hở của mình. Ông nguyện ở lại chiến đấu với xóm làng và khi phải đi tản cư, ông cũng tự an ủi mình: “Đi tản cư cũng là kháng chiến”.

Tình cảm của người nông dân này dành cho cách mạng, cho kháng chiến chân thành, sâu sắc vô cùng. Câu chuyện của ông Hai bây giờ chỉ xoay quanh về cách mạng, về kháng chiến, về tự vệ làng ông. Tình yêu làng, yêu nước hòa quyện trong con người ông Hai ngày càng rõ rệt. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây ông Hai cổ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân. Trước hết đó là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước việc đó. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng Chợ Dầu vẫn là nơi ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ... ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu lóe lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã tự thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù... Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai...”.

Cách mạng đã đổi đời cho người nông dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân như ông rất chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, từ máu thịt.

Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, ta hiểu và cũng mừng với sự hớn hở của ông Hai khi nghe cái tin làng mình theo Tây được cảichính. Tình yêu làng, yêu nước lại trở về gắn bó với nhau ngày càng sâu sắc, thắm thiết hơn trong lòng người nông dân chân chất này. Từ nay ông Hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước. Cái vui của ông Hai là cái vui của một con người yêu quê hương đất nước sâu sắc. Niềm vui khiến ông lão như trẻ con lật đật, bô bô kể về làng mình bị đốt nhẵn. Nhà của ông bị cháy trụi mà ông không để ý, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này làng ông là làng kháng chiến và bây giờ ông lão có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về làng Chợ Dầu kháng chiến của mình.

Kim Lân rất thành công khi xây dựng và khắc họa hình ảnh ông Hai trong lòng người đọc. Đó là một người nông dân nghèo khổ, yêu làng mình sâu sắc. Được cách mạng đổi đời, ông lão nguyện đi theo cách mạng và trung thành với kháng chiến. Hình ảnh ông Hai sống động, chân thực và những nét tính cách rất nông dân: chất phác, chân thành là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

Vốn là những con người chân thực, chất phác nên những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ có cảm giác bỡ ngỡ, lạ lẫm. Nhưng cảm giác ấy nhanh chóng tan đi. Người nông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành, một lòng hăm hở. Cuộc đời người nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới, tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hòa chung vào phong trào cách mạng của cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân. Những người như ông Hai cảm thấy day dứt, tủi hổ, khổ sở khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng tháng Tám đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ.

Tác phẩm Làng của Kim Lân đã khắc họa hình ảnh ông Hai hết sức sống động, chân thực với những chi tiết dân dã, mộc mạc. Hình ảnh ông Hai là tiêu biểu của người nông dân Việt Nam sau cách mạng. Ta cảm nhận được sự sôi nổi trong những ngày đầu đón nhận cách mạng của người nông dân. Người nông dân đã được đổi đời nhờ có cách mạng, họ hiểu điều đó và gắn bó với cách mạng với lòng trung thành, biết ơn sâu sắc.

Bình luận (0)
nguyễn mộc linh
Xem chi tiết
vũ tiến đạt
18 tháng 12 2017 lúc 6:29

Trong ngăn kí ức ngày hôm qua của mình, tôi có thể quên nhiều thứ, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được lần tôi trót xem trộm nhật kí của Thương. Đó là kỉ niệm chắc mãi tôi cũng không bao giờ quên được.
Thương là cô bạn thân nhất của tôi từ hồi còn bé xíu nên tôi hiểu thương rất rõ. Thương vừa xinh xắn vừa dễ mến, lại rất được lòng các bạn trong lớp. Trong một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, tôi đến nhà Thương chơi. Vì biết hôm nay bố mẹ Thương không co nhà nên vừa tới tôi vừa bấm chuông inh ỏi, lúc đó Thương từ trong nhà vọng ra: - Đứa nào to gan mà mới sáng đã đến phá nhà bà thế hả? - Ơ, hay nhỉ! Thấy trẫm tới mà không ra mở cửa à?-Tôi đáp lại Thương mở cửa cho tôi, vì đã thân thiết với nhau từ nhỏ nên tôi chẳng lạ gì nhà Thương cả. Tôi chạy ào lên phòng Thương, nằm dài trên cái giường đầy thú bông của bạn ấy. Thương bảo tôi lên phòng lấy gì chơi trước đi, để bạn ấy lấy nước và trái cây rồi mang lên sau. Chắc hẳn các bạn sẽ ngạc nhiên lắm khi đứng trước kệ sách của
Thương, đối với một đứa chẳng thích đọc sách chút nào như tôi thì nhìn đã thấy phát ngán rồi. Đang loay hoay tìm sách thì tôi bỗng thấy một khe hở nhỏ cạch kệ sách, tôi tò mò không biết có gì trong đó bèn thò tay vào xem thử, thì tôi rút ra được một cuốn sổ. Mặt trên của cuốn sổ được trang trí rất đẹp và cho ghi dòng chữ “ Những tâm sự của tôi”. Ôi không, đây là nhật kí của Thương. xem Thương ghi nhật kí thế nào? Tôi không kìm được tay mình và Tôi định để vào chỗ cũ, nhưng sao lại ngập ngừng, trái tim tôi thúc bảo phải mở ra xem ngay, nhưng lý trí lại bắt tôi cất đi, tôi muốn biết thêm về Thương, tôi muốn biết đã nó ra, tôi biết đọc như thế này có nghĩa là xâm phạm đời tư cá nhân của Thương nhưng sao tại sao tôi lại không kìm được mắt mình và đọc nó.“Trời ơi ! lẽ nào cuộc sống của Thương là như vậy ?”Bỗng tôi giật bắn mình, Thương đang đứng ngay trước mặt tôi, Thương hét lên: -Bạn thật là quá đáng ! Tay tôi run bắn, cuốn nhật kí rơi bộp xuống đất, tôi đứng trân trân, bất động, không nói được lời nào. Chắc tôi sẽ không bao giờ quên ánh mắt rưng rưng,đôi môi run rẩy đầy tức giận của Thương lúc ấy.Tôi vụt chạy đi,lòng nặng trĩu .. Đó là lần đầu tiên tôi thấy Thương giận dữ như vậy.Tôi chạy,chạy như trốn ánh mắt ấy,tôi muốn khóc quá.Tôi rất sợ,sợ sự giận dữ Mai ném cho tôi,sợ cả chính việc mình vừa làm.Về đến nhà tôi đóng sập cửa phòng lại,thở hổn hển,bần thần ngồi xuống ghế,tôi tự trách mình tại sao lại làm như vậy ?Tại sao tôi không chiến thắng được sự tò mò của chính mình?Tại sao?Tôi buồn bực quăng cả chồng sách xuống đất.Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt không yên . Đêm đó tôi trằn trọc mãi.Tôi ước gì chuyện đó chưa bao giờ xảy ra và ngày mai chúng tôi lại cùng nhau đến lớp.Tôi suy nghĩ miên man,nhớ lại những trang nhật

ký đầy nước mắt của bạn.Làm sao tôi có thể tưởng tượng được rằng gia đình Thương không hề hạnh phúc,suốt ngày Thương phải nghe những trận cãi vã của bố mẹ.Tôi không tin vào những gì mình đã đọc.Càng nghĩ,tôi càng thương Thương.Tôi tưởng tượng ra hình bóng Thương cô đơn và buồn bã trong căn nhà lớn.Vậy mà tôi đã tưởng mình hiểu về Thương rõ lắm.Tôi muốn chia sẻ cùng Thương,muốn an ủi và làm hoà với bạn.Nhưng tôi lo Thương vẫn trách móc, vẫn giận tôi và bạn sẽ chẳng bao giờ nói với tôi một lời nào nữa bởi tôi đã cố tình xen vào bí mật đau buồn mà Thương hằng cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình.Cứ thế,suốt một đêm, tôi không sao thoát khỏi sự ăn năn,day dứt… Sáng hôm sau,tôi đến lớp một mình.Tôi tự nhủ lòng sẽ đến xin lỗi Thương nhưng tôi vẫn vô cùng lo lắng.Mặc dù vậy, tôi đã không thực hiện được ý định của mình vì hôm sau và những ngày sau đó Thương không đến lớp.Vì hoàn cảnh riêng của gia đình, Thương đã chuyển về quê để học . Mong rằng,sẽ có lúc tôi gặp lại Thương để xin lỗi bạn,và tôi cũng cầu mong những nỗi buồn của Thương sẽ vợi đi theo năm tháng.Tôi tin tưởng một tương lai rộng mở,sáng tươi sẽ đến với người bạn của tôi.Và tôi nữa,tôi tự hứa với mình sẽ chẳng bao giờ lặp lại sai lầm dại dột thuở ấu thơ .

Bình luận (0)
vũ tiến đạt
18 tháng 12 2017 lúc 6:30

đề 2:

_ HỌC LÀM NGƯỜI _ dở hay gì ráng đọc nha... khg thích thì cho vô thùng rác vậy !
_ngày tôi còn bé, khi ấy mới học lớp 8 tôi thường học dỡ môn ngoại ngữ. mặc dù lòng rất thích được biết nói tiếng anh ( nghe nó sì sì...đã miệng lắm .. nghe oách nữa ..) thế nhưng không hiểu sao chỉ được kha khá vào năn lóp 7 thôi, rồi bước sang năm lớp 8 tôi mất căn bản luôn . nên dù các môn học khác có khá , tiô vẫn luôn thấy có lỗi với thầy giáo bộ môn ngoại ngữ. còn với môn văn vợ thầy dạy tgì tôi rất chi say mê và ....khắm khá điểm ở môn này.
mỗi lần tôi ghé vào căn phòng trường cấp tạm cho vợ chồng thầy ở để chơi đùa với con bé nhóc 2 tuổi của thầy .. thì tôi cứ thấy thầy thỉnh thoảng nhìn chăm vhăm vào tôi và lúc thì nghiêm lúc thì cười nhết mép...rất khó hiểu. tôi ytự hỏi lòng " hổng biết ồng có nói cho vợ nghe về "mức học" của mình cho cô nghe không? hổng biết thầy có nghĩ mình là đưa ...hơi bị ngu... nên không muốn cho mình vào chơi với con rthầyh không ...cái cười nhết mép đó có phải là nụ cười coi rẻ? ối chào .. bao nhiêu là cái sự lo lắng mỗi khi vào nhà cô mà có mặt thầy ở nhà... .Nên tôi ..liều mạng mom men hỏi vợ thầy _ " Cô ơi ! thầy có ghét em hông Cô vì e học môm thầy yếu lắm. cô nói trong nụ cười thật hiền dịu có chút dí dõm ..Thầy chỉ nói với Cô 2 chị em con học trái nhau ... chị em ngày trước rất giỏi môn của thầy , còn con thì .. kém hơn cgị nhiều , chị con thì lại tàn tàn môn văn. nên nói chuyện với mọi người cũng không mấy được lòng bạn và có duyên như con ..."( hổng biết cái đó là khen hay chê , nhưng lòng tôi thấy nhẹ tơn hơn ...) sáng hôm sau tôi cố gắng học thật nhớ từ vựng để trả bài cho thầy .. thầy biết tôi ...ngu môn thầy mà thầy cứ ..địa tiu mãi và hay kêu tôi lên bản làm bài .. quê muốn...nổi mụn luôn.. nhưng hôm nay tôi hí hửng lắm , 2 cánh mũi tôi phòng phòng tự hào khi mà tôi viết được rtất nhiều từ. thầy khen tôi có tiến bộ cho cả lớp nghe .. làm tiô khoái quá chừng . rồi lúc trưa tôi tới nhà thầy chơi . phụ cô giữ em thầy kêu tôi vào nói thế này " Nhóc nè, con mất căn bản nhiều, nên nếu khg có tiền học thêm thì lại đây buổi chiều tối , thầy kèm cho 1 tiếng , không tính thù lao đâu. ngược lại em hứa là phải có tiến bộ và mạnh dạn phát biểu...con người tuy không phải ai cũng tất cả thông minh và hiểu biết hết tất cả các môn điều nhau, nhưng nếu con cố gắng thì cũng có thành quả tốt hơn hiện tại , cái chính là con đương quá tự ti , khép kín và nên dứt khoát , mạnh dạn thực hiện mọi điều con muốn , mà con cảm thấy điều đó không ảnh hưởng đến Sức khỏe , tình cảm , đạo đức của con với mọi người , thì con hãy mạnh dạn lên nhé .
Từ đó đến nay tôi vẫn rất mang ơn thầy vì câu nói này . tuy tôi chưa thật giỏi môm thầy dạy , nhưng tôi đã sống rất tốt nhờ có lời khuyên của thầy . tôi biết trân trọng Tình cảm mọi người dành cho mình . và làm điều gì cũng mạnh mẻ , không do dự , so đo như thầy hướng dẫn...bây giờ trong mỗi việc làm của tôi , những lúc hơi yếu lòng , hay có sóng gió cuộc đòi , có thất bại lạmh vực nào đó ..tôi vẫn nghe lời thầy văng vẳng bên tai... dù thầy đã ra đi rất lâu rồi trên cỏi đời này... nhưng tôi quý biết bao 1 nghĩa cử cao đẹp của thầy và cô biết dường nào .

Bình luận (0)