Hướng dẫn soạn bài Truyện An Dương, Mỵ Châu và Trọng Thủy.

Nguyễn ngọc anh
Xem chi tiết
Võ Nguyễn Anh Thư
Xem chi tiết
Đại Tiểu Thư
16 tháng 11 2021 lúc 12:55

Tham khảo:

Những tưởng câu chuyện An Dương Vương, Mị Châu - Trọng Thủy đã khép lại sau kết cục đầy bi thương, Mị Châu bị vua cha chém chết để giải mối nợ nước, thù nhà; còn Trọng Thủy vì ân hận, xót xa trước cái chết của Mị Nương, trước sự dằn vặt của lương tâm nên cũng tìm đường quyên sinh nơi giếng nước mà Mị Châu thường tắm khi còn sống. Nhưng nhờ trời thương xót cho mối nghịch duyên của đôi vợ chồng còn chưa giải nên sau khi chết, Mị Châu được vua Thủy Tề nhận làm con gái nuôi, còn Trọng Thủy sau nhiều ngày lang thang vất vưởng chốn thủy cung xa lạ, cuối cùng cũng tìm thấy Mị Châu.

Lại kể đến việc Trọng Thủy lạc xuống Thủy cung, vốn dĩ sau khi chết Trọng Thủy phải xuống âm phủ, trên đường sẽ có một người phụ nữ là Mạnh Bà tặng cho một chén canh để quên hết việc kiếp này rồi thuận lợi vào vòng luân hồi đầu thai sang kiếp khác. Nhưng trước khi chết, Trọng Thủy vẫn ôm một mối ân hận, đó là món nợ của chàng dành cho Mị Châu, nên chàng đã từ chối uống canh, muốn được làm một cô hồn để tìm kiếm Mị Châunhằm xin nàng tha thứ. Mạnh Bà nghe Trọng Thủy giãi bày nỗi đớn đau trong lòng nên chỉ biết thở dài, ai oán:

- Thương thay cho kiếp người mệnh khổ, hai người ai cũng ôm một nỗi hận riêng, người nào cũng từ chối bát canh này. Nhưng mấy ai hiểu rằng, được quên đi là một đặc ân lớn nhất mà trời cao ban tặng, nếu đã không muốn nhận ta cũng chẳng ép làm gì. Chỉ muốn nói với ngươi một điều, nàng Mị Châu kia năm xưa ta cũng từng gặp, nàng ta bảo rằng, tội lỗi do nàng gây ra chết cũng chưa đền lại được, nên cam nguyện làm một cô hồn dã quỷ, mãi mãi phải dằn vặt ghi nhớ những tội nghiệt mình gây ra làm sự trừng phạt. u cũng thật cứng cỏi và tội nghiệp. Nhà ngươi nếu đã thấy mình mắc sai lầm tày đình, thì liệu mà tìm xin nàng tha tội, nàng ở Thủy cung Đông Hải.

Nói rồi Mạnh Bà đột nhiên biến mất, chỉ để lại một rừng hoa Bỉ Ngạn, đỏ rực. Trọng Thủy đau đớn, ngã khuỵu, chỉ biết thều thào cảm tạ Mạnh Bà, rồi lên đường tìm kiếm hồn Mị Châu. Sau nhiều năm lang bạt, bôn ba, Trọng Thủy cũng tìm được đến bờ Đông Hải, xuống tới Thủy cung, Trọng Thủy cũng phải thấy choáng ngợp vì cảnh sắc tráng lệ và rực rỡ. Vốn là dòng dõi vương giả nhưng cả đời chàng cũng chưa từng thấy kiểu trang trí xa hoa thế này bao giờ, cung điện chẳng phải xây từ ngói gạch, mà trông như những hang động rộng lớn, hoa văn chạm khắc tinh xảo trên những vách đá trắng ngà. Ở sâu dưới mặt nước, lại thiếu ánh sáng mặt trời nhưng lòng cung lúc nào cũng sáng rực, tất cả là nhờ hằng hà sa số các viên minh châu được đặt để khắp nơi, trên vách tường, dưới mặt đất. Xung quanh chỗ nào cũng thấy các dải san hô xếp san sát, muôn hình vạn trạng chẳng từ ngữ nào có thể diễn tả được quang cảnh mà Trọng Thủy nhìn thấy khi ấy. Đang ngơ ngẩn, thì Trọng Thủy bị thủy quân bắt được, cho rằng chàng có ý đồ bất chính, họ dẫn chàng đến trước mặt vua Thủy Tề.

Đúng lúc, Thủy cung đang tổ chức tiệc sinh nhật cho công chúa, Long Vương thấy có kẻ lạ đột nhập thì không vui, nổi giận:

- Người này ở đâu ra, làm mất hết nhã hứng của bổn vương và công chúa, thật không ra thể thống gì!

Người dẫn đầu trong đám cận vệ, quỳ tâu:

- Dạ bẩm bệ hạ, chúng thần đi tuần quanh thì bắt được tên này đang ngó nghiêng, bộ dáng hết sức khả nghi, mà tra hỏi thì hắn cái gì cũng không biết, nên đưa đến đây để người quyết định ạ.

- Cho ngươi lui, người đang quỳ kia ngẩng đầu lên cho bổn vương xem.

Trọng Thủy lặng lẽ ngẩng đầu lên, đối diện với Long vương, bỗng nhiên có tiếng chén rơi vỡ phát ra "choang". Long Vương quay sang nhìn, thì thấy công chúa thần sắc tức giận, mắt ngấn nước, hai tay nắm chặt vạt áo, run run. Long Vương thấy thế càng thêm nghi ngờ, gặng hỏi:

- Ngươi từ đâu tới đây, có ý đồ gì, nếu không muốn mất mạng thì nhanh khai rõ sự tình.

Trọng Thủy bình tĩnh thưa:

- Thảo dân vốn là con trai Triệu Đà, vua nước Triệu, vì một số nguyên nhân mà sau khi chết đi, muốn xuống đây tìm một người con gái tên là Mị Châu để thỉnh tội, kính xin ngài lượng thứ vì đã không mời mà đến, phá hỏng buổi tiệc.

Long Vương, bất ngờ quay sang công chúa, hỏi:

- Mị Châu, con và hắn có quen biết chăng, sao hắn lại mạo muội đến tận đây tìm?

Lúc này nàng công chúa mắt ngọc mày ngài, mới lặng lẽ lau nước mắt, đáp:

- Thưa phụ vương, hắn là người khi xưa con còn tại thế có một mối ân oán sâu nặng, kính xin phụ vương cho con gặp riêng hắn để giải quyết nốt mối nghiệt duyên còn vương vấn chưa giải. Rồi con sẽ thưa lại hết tất cả sự tình cho người!

- Được rồi, con lui xuống đi, cứ từ từ nói chuyện đừng để tổn hại sức khỏe, con mới ốm dậy không lâu. Nếu hắn có gì bất kính với con ta sẽ trị tội hắn thích đáng.

Nói rồi, Long Vương cho người cởi trói cho Trọng Thủy, rồi ra hiệu cho một vài người hầu đi theo chàng và Mị Châu để tránh bất trắc. Mị Châu hành lễ tạ Long Vương rồi lẳng lặng rời khỏi, nét mặt u sầu. Trọng Thủy theo sau cũng chẳng khá khẩm hơn là bao, bao nhiêu lời muốn nói cứ nghẹn ứ trong cổ, không tài nào thốt ra. Bởi, dù nói câu gì đi chăng nữa Trọng Thủy cũng cảm thấy thật xấu hổ. Đến một lương đình vắng vẻ, Mị Châu ra hiệu cho người hầu lui hết, chỉ còn nàng và Trọng Thủy. Nàng đứng quay lưng về phía Trọng Thủy, im lặng một lúc lâu mới lên tiếng:

- Chẳng lẽ, ngươi lúc còn sống hành hạ, giày xéo tâm can ta, hại ta chưa đủ thê thảm hay sao mà còn theo tìm tới tận đây? Không lẽ, ngươi muốn hại ta thêm lần nữa mới hả lòng hả dạ?

Trọng Thủy lắc đầu liên tục, rồi quỳ sụp xuống, cúi đầu vô cùng khổ sở:

- Không, không phải vậy đâu, nàng đã hiểu lầm ta rồi. Từ lúc nàng chết ta đã hối hận khôn cùng, ta đâu biết đôi ta sẽ có ngày này đâu. Mị Châu nàng ơi, ta từ chối canh Mạnh Bà chỉ để đi tìm nàng, chỉ để cầu xin nàng khoan thứ, có thế mối hối hận ngàn năm trong tìm ta mới có thể nguôi ngoai.

Mị Châu quay phắt lại, đôi mày liễu nhíu chặt, đôi mắt đỏ hoe, môi mím chặt, từng câu từng chữ như cứa vào tâm can:

- Cầu xin? Cầu xin ta tha thứ ư? Lừa dối ta, hại ta nước mất nhà tan, bị cả đất nước oán hận, hại ta bị chính cha ruột chém chết, đến chết rồi cha ta cũng chẳng thèm tha thứ cho ta. Trong mắt ngươi ta chỉ là một quân cờ, một người phụ nữ ngu muội nên dễ dàng bị nhà ngươi dắt mũi. Ta nói cho ngươi biết, ước muốn duy nhất của ta là vĩnh viễn không gặp lại kẻ bạc tình bạc nghĩa như ngươi nữa, ngươi có biết không? Ta sẽ không bao giờ tha thứ cho ngươi đâu, đừng vọng tưởng!

- Mị Châu, ta biết lỗi lầm của ta dù có để nàng đâm trăm ngàn nhát kiếm, cũng chẳng đủ để nàng nguôi ngoai, nhưng thực tình là do bản thân ta quá ngu muội, quá xem trọng quyền lực mà quên mất tình cảm của mình. Chính ta đã khiến nàng ra nông nỗi này, chính ta đã hại nàng phải chịu đau khổ, những nỗi đau ấy ta biết nàng chẳng thể quên được. Mị Châu, chỉ cần nàng tha thứ, ta nguyện vì nàng làm bất cứ việc gì để chuộc tội, dù có phải theo nàng làm trâu làm ngựa trăm kiếp ta cũng không nề hà. Ta chỉ cần nàng tha thứ.

- Từ tha thứ nói ra thật dễ dàng, nhưng làm sao ta có thể tha thứ được đây? Nỗi đau vong quốc, nỗi đau bất nghĩa, nỗi đau bị lừa dối, mỗi ngày mỗi đêm đều như hàng ngàn mũi tên ra sức đâm vào trái tim ta, dằn vặt ta, khiến ta không tài nào chợp mắt. Dù ta may mắn được phụ vương và mẫu hậu nhận làm con gái nuôi, họ đều hết sức thương yêu, nhưng ta vẫn chẳng thể nào quên được. Lúc táng thân nơi bờ biển, trên đường đến hoàng tuyền ta gặp được Mạnh Bà có chén canh quý, tương truyền uống vào có thể quên hết tất cả, để đầu thai. Nhưng ta sao có thể dễ dàng quên tất cả chứ, ta không nhận chén canh ấy, đó là sự trừng phạt duy nhất ta dành cho chính bản thân mình, để trừng phạt sự ngu muội và ngốc nghếch của ta.

Trọng Thủy lẳng lặng, nắm lấy bàn tay run rẩy của Mị Châu:

- Sao nàng phải tự hành hạ mình như vậy, là do ta, tất cả là do ta, nỗi đau ấy đáng lý phải để ta gánh chịu thay nàng. Tại sao khi ấy ta lại hồ đồ đến như vậy, quyền lực thực sự quan trọng như vậy ư? Mặc kệ là ai cần ta không cần, ta chỉ cần nàng. Nàng hãy tha thứ cho ta được chứ? Dù nàng bắt ta phải hồn phi phách tán vĩnh viễn không được siêu sinh ta cũng không nửa lời oán trách.

Nói rồi Trọng Thủy, giơ tay định tự hủy ba hồn bảy phách của mình, Mị Châu hốt hoảng, túm chặt lấy tay Trọng Thủy, nước mắt chảy như mưa.

- Chàng hà tất phải làm thế? Đôi ta còn có thể vãn hồi cái gì đây? Không thể nữa rồi. Suốt trăm năm nay, ta ngày nào cũng nghĩ đến cha, không biết người đang ở chốn nào, không biết người còn hận ta không, rồi ta lại nghĩ đến chàng, ta vừa căm hận lại vừa đau khổ vì tình yêu của ta dành cho chàng. Ta không ngờ có một ngày lại thấy được sự hối lỗi của chàng thấy được chàng cầu xin ta tha thứ, mặc dù điều đó chẳng khiến ta vui vẻ hơn. Trọng Thủy, lâu lắm rồi ta không gọi tên chàng như vậy, ta không thể tha thứ cho chàng được, lương tâm không cho phép ta làm như thế, chi bằng đôi ta hãy cùng quên đi, suốt trăm năm qua có lẽ ta và chàng đã đều chịu đủ dằn vặt, đau khổ rồi. Quên đi thôi.

Trọng Thủy ngây người ra, chàng không ngờ đến cuối cùng Mị Châu vẫn không chịu tha thứ cho chàng, đã một trăm năm chàng khổ công tìm kiếm, chỉ mong câu tha thứ của nàng, thế nhưng không thể, âu cũng đáng, đáng lắm. Kẻ như chàng sao có thể tha thứ được, tự vấn lương tâm chàng cũng chẳng dám tha thứ cho mình, thì lẽ nào Mị Châu lại có thể. Trọng Thủy cười chua xót.

- Cũng phải, duyên số chúng ta đã định là phải vĩnh viễn đối đầu nhau, ta chấp nhận hết. Nhưng nàng đừng tự dằn vặt mình nữa ta chỉ cầu xin duy nhất điều này, xin nàng hãy quên hết đi, ta với nàng cùng đi gặp Mạnh Bà, xin bà ấy chén canh, kiếp sau chỉ mong chúng ta đừng phải gặp cảnh trái ngang nhường này. Được không Mị Châu?

- Cũng tốt, chúng ta hãy quên hết tất cả, quên hết những gì đau khổ ở kiếp này, quên hết những hận thù xưa cũ. Nguyện kiếp sau không gặp lại, dù luân hồi ngàn kiếp cũng không gặp lại. Đó là điều duy nhất ta muốn trừng phạt, trừng phạt cả ta và chàng.

- Được, ta chấp nhận.

Trọng Thủy nắm chặt đôi bàn tay, cổ họng khô khốc chỉ thốt ra được lời ấy. Nói rồi cả hai cùng nhau đến gặp Mạnh Bà. Trên suốt dọc đường đi hoa Bỉ Ngạn nở rực rỡ, loài hoa ấy chỉ thấy hoa mà không thấy lá, có lẽ hoa và lá của nó đã định đời đời kiếp kiếp không thể tương phùng, tựa như mối tình bi thương của những con người mệnh khổ Mị Châu và Trọng Thủy.

Thế nhưng, Trọng Thủy đã lại một lần nữa dối Mị Châu, chàng lén xin Mạnh Bà cho vào luân hồi mà không phải uống chén canh quên chuyện kiếp này, Mạnh Bà đồng ý, chỉ vì hiểu được tấm lòng của của chàng. Cứ thế, Trọng Thủy mang nỗi ân hận và đau khổ đi đầu thai, đến kiếp nào chàng cũng âm thầm tìm và bảo vệ Mị Châu, lặng lẽ nhìn nàng sống hạnh phúc bên người khác, còn Trọng Thủy cứ ôm mối ân hận ngàn đời trải qua sinh, lão, bệnh, tử.

https://thuthuat.taimienphi.vn/hay-tuong-tuong-sau-khi-trong-thuy-chet-gap-lai-mi-chau-duoi-thuy-cung-45279n.aspx
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là truyền thuyết nói về quá trình dựng nước, giữ nước của An Dương Vương, cùng với đó là câu chuyện tình yêu đầy oan trái của Mị Châu và Trọng Thủy. Khám phá thêm những nội dung đặc sắc của truyền thuyết này, bên cạnh bài Hãy tưởng tượng sau khi Trọng Thủy chết gặp lại Mị Châu dưới thủy cung, các em hãy tham khảo thêm: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ, Phân tích nhân vật An Dương Vương, Cảm nghĩ của em về truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, Thái độ và tình cảm của nhân dân đối với nhân vật Mị Châu qua Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thuỷ.

  
Bình luận (0)
Camly Tranthi
Xem chi tiết
BÙI THẢO VY
Xem chi tiết
Lê Hồng Nhung
Xem chi tiết
Thảo Phương
25 tháng 9 2019 lúc 17:34

Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ.

Tôi là Mị Châu, con gái yêu của vua An Dương Vương. Người con gái được vua cha yêu thương hết mực nhưng cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin người. Câu chuyện của tôi là một bài học đắt giá để người đời soi vào, lấy đó làm lời răn về sự cảnh giác. Cho đến tận bây giờ cái cảm giác đau đớn vì bị phản bội vẫn còn âm ỉ trong tôi. Các bạn chia sẻ cùng tôi nhé.

Sau khi giúp cha tôi xây thành cổ Loa, thần Kim Quy cho cha tôi một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha tôi chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.

Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không được, bèn xin giảng hòa với cha tôi, sai con trai là Trọng Thủy sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần. Điều này thì về sau, khi quân Đà kéo sang và nỏ thần không còn hiệu nghiệm, cùng cha bỏ trốn tôi mới vỡ lẽ. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hòa hiếu, Trọng Thủy gặp tôi, con gái yêu của An Dương Vương. Lúc bấy giờ tôi là một cô gái mới lớn, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng nhan sắc. Trọng Thủy đem lòng yêu tôi, tôi dần dần cũng xiêu lòng. Và dần trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành mà tôi không dẫn người yêu đến xem. Cha tôi không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả tôi cho Trọng Thủy. Chàng sang ở hẳn trong cung điện của cha tôi, cùng chung sống. Một đêm trăng sao vằng vặc, tôi và Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thủy hỏi: Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Tôi vô tư đáp:

– Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được?

Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Tôi không ngần ngại, ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bẩn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏhồi lâu, rồi đưa cho tôi cất đi.

Sau đó, Trọng Thủy xin phép cha tôi về Nam Hải, Trọng Thủy thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ giống hệt của An Dương Vương. Lay giả làm xong, Trọng Thủy giấu vào trong áo, lại trở sang Âu Lạc. Cha vốn chiều tôi, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn cha và tôi say túy lúy. Thừa lúc bố vợ say, Trọng Thủy lẻn ngay vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào. Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, tôi hỏi:

– Chàng như có gì lo lắng phải không? Trọng Thủy đáp: Ta sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Tôi buồn rầu lặng thinh, Trọng Thủy nói tiếp: Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?

Tôi tin lời chàng ngay, lòng đau đớn nói:

– Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.

Nói xong tôi nức nở khóc.

Về đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa cái móng rùa vàng cho cha. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để tôi ngồi sau lưng, phi thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, tôi bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.

Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biến, khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:

– Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!

Cha tình ngộ, tôi cũng chợt đau đớn hiểu ra sự tình, nguyện xin nhận cái chết để chuộc lỗi lầm khủng khiếp mà mình đã gây ra. Tuy vậy lòng tôi không khỏi ân hận. Tôi tự trách mình đã gây ra cảnh mất nước, trách Trọng Thủy nỡ lợi dụng tình yêu và tấm lòng trong trắng của tôi. Sống dưới Thủy cung tôi không phút nào thanh thản và thề sẽ không để ai lợi dụng mình nữa. Tôi cốgắng làm những việc tốt đểmong bù lại tội lỗi đã gây ra. Nhưng trong tôi, hình bóng Trọng Thủy vẫn còn đâu đó và chợt nhói đau mỗi khi nhớ về chàng với nỗi xót xa và oán hận.

Thế rồi thật bất ngờ, trong ngày hội lớn ở Thủy cung, tôi gặp chàng. Không nghĩ là chàng có mặt ở chốn này, tôi lúng túng vài giây khi đối mặt nhưng sau đó bỏ đi. Tôi không muốn nhìn thấy con người phản bội đã gây cho cả đất nước tôi cảnh đau thương, gây cho cha tôi nỗi đau của một ông vua mất nước, gây cho tôi vết thương lòng và cướp mất của tôi niềm tin vào tình yêu và lòng tốt của con người. Tôi hận chàng suốt bao năm qua, và giờ đây nỗi hận ấy bùng lên mạnh mẽ. Chàng đuổi theo tôi, vừa chạy vừa gọi:

– Mị Châu nàng ơi! Ta đã đi tìm nàng theo dấu lông ngỗng từ ngày ấy. Ta biết nàng hận ta nhưng hãy cho ta cơ hội giãi bầy!

Trời ơi vẫn giọng nói trầm ấm thân thương ấy. Nhưng không thể tin lời nữa. Tôi xua đuổi:

– Tôi không còn lòng tin vào người nữa. Bây giờ tôi cũng không còn gì cho người cả. Hãy đi đi, đừng bao giờ xuất hiện và làm vết thương trong lòng ta thêm đớn đau!

Trọng Thủy vẫn một mực tha thiết.Chàng đuổi kịp tôi và quì xuống van xin:

– Ta biết nàng hận ta nhiều lắm, ta cũng biết không thể nào chuộc được lỗi lầm đã gây ra. Nhưng xin nàng hãy cho ta tỏ bày lòng mình. Rồi chàng kể:

– Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn ta một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm vợ. Đến gần bờ biển, thấy xác nàng nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Ta đớn đau, khóc ngất đi, trong lòng như cắt, rồi thu nhặt thi hài nàng đem về chôn trong thành. Không còn nàng, ta cũng chả thiết sống nữa. Bổn phận với cha ta đã xong, rồi ta đâm đầu xuống giếng trong thành mà xưa kia nàng thường tắm để chết cùng nàng.

Đến đây tôi chợt hiểu vì sao chàng có mặt ở Thủy cung. Chàng từ bỏ danh vọng, từ bỏ chiến thắng, từ bỏ cả vua cha, ngai vàng để tìm tôi. Nhưng nỗi uất hận trong tôi không dễ gì nguội vơi. Xót xa, tôi hỏi chàng:

– Chàng yêu thiếp như thế sao nỡ lợi dụng lòng tin và tình yêu trong sáng của thiếp?

– Đấy là sai lầm lớn nhất của đời ta. Tuổi trẻ và sự nông nổi khiến cho ta chỉ biết nghe theo lời cha một cách mù quáng. Giá như được trở lại những ngày tháng ấy, thay vì trộm nỏ thần để báo hiếu ta sẽ giúp hai người cha trút bỏ hận thù và mộng xâm lược. Ta sẽ không phạm tội với nàng, không mất nàng, không phải sống trong đau đớn, dày vò. Đời này ta nguyện chỉ yêu mình nàng. Trong lòng ta không có hình ảnh nguời đàn bà nào khác nàng, nàng có biết không?!

Chàng nói trong nước mắt. Tôi cũng khóc và chợt hiểu rằng cả hai chúng tôi đều là nạn nhân, là người bị lợi dụng mà thôi. Tôi gục vào vai chàng, những uất nghẹn trong lòng tôi bao năm qua theo nước mắt đẫm ướt áo chàng. Dù là kẻ tội lỗi với cha, với đất nước nhưng tôi vẫn tha thiết mong nhận được sự cảm thông. Tôi biết trái tim mình không “nhầm chỗ để trên đầu” như người ta nói. Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ rằng: Đừng bao giờ mắc sai lầm như tôi và Trọng Thủy cả. Hãy sống bằng tình yêu thay cho toan tính và hận thù!

Bình luận (0)
Ahgase Muun
Xem chi tiết
nhu
Xem chi tiết
2003
Xem chi tiết
Noire Lastation
16 tháng 9 2018 lúc 10:50

Vua An Dương Vương xây thành nhưng nhiều lần bị đổ, nhờ có thần Kim Quy mà dựng được Loa thành. Thần ở lại giúp vua ba năm, trước khi ra về còn tặng cho vua chiếc vuốt làm lẫy nỏ. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà xâm lược. Nhưng sau đó, Đà cầu hôn. Vua vô tình gả Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy, lại để Thủy ở rể. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem nỏ thần, rồi lén đổi trộm lẫy nỏ đem về cho cha. Có được lẫy thần, Triệu Đà đem quân đánh Âu Lạc. Vua chủ quan ngồi đánh cờ, khi quân địch tiến sát thành, lấy nỏ ra bắn, thì mới biết lẫy nỏ đã mất, đành đưa mị Châu bỏ chạy. Mị Châu giữ lời hẹn, bứt lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy đuổi theo. Vua đến đường cùng, gọi thần Kim Quy lên giúp. Thần kết tội Mị Châu, vua rút gươm giết con rồi theo thần đi xuống biển. Trọng Thủy đuổi tới bờ biển, ân hận mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, ngày đêm thương tiếc, nhớ mong đến nỗi lao đầu xuống giếng mà chết. Máu của Mị Châu chảy xuống biển thành ngọc trai, người đời sau mò được ngọc trai, đem rửa với nước giếng ở Loa Thành thì ngọc lại càng thêm sáng trong.

Bình luận (0)
Phùng Trang
Xem chi tiết
phạm tiến hoàng
Xem chi tiết