Hướng dẫn soạn bài Nước Đại Việt ta - trích

Bảo Lê Huỳnh Quốc
Xem chi tiết
Nguyễn Thu Hương
22 tháng 2 2018 lúc 22:33

Câu văn khẳng định sự ngang hàng, bình đẳng và chủ quyền của dân tộc. Các triều đại nước ta cũng tồn tại song song và không thua kém gì so với các đế vương phương Bắc

Bình luận (0)
meo con
4 tháng 3 2018 lúc 20:59

Phân tích ý nghĩa và hình thức biểu đạt của hai câu: "Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập - Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương"
=> Đặt ta ngang hàng với Trung Quốc, ngang về chính trị, tổ chức bộ máy quốc gia.
Chúc em học tốt!

Bình luận (0)
Bảo Lê Huỳnh Quốc
Xem chi tiết
Nhã Doanh
12 tháng 2 2018 lúc 19:36

Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đợi cáo không dài, tuy vậy, nó vẫn là điểm tựa, là nền móng lí luận cho toàn bài. Nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của kẻ dẫn đường từ nơi xuất phát. Đoạn vãn ấy có sức khái quát rất cao: biến những gì đã xảy ra thành những quy luật vận hành. Người thắng kẻ thua là do nghĩ và làm thuận chiều hay ngược chiều với nó. Khép lại đoạn văn bằng hai câu "Việc xưa xem xét - Chứng cớ còn ghi", Nguyễn Trãi muốn biến lời nói của mình thành lời của người chép sử, biến cái chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng cá biệt thành quy luật muôn đời để mọi tính toán của con người hãy soi mình vào đó. Bể nổi của lời văn là sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thìa một đạo lí, một tư tưởng, một lẽ phải làm người: nhân nghĩa.

Bình luận (0)
meo con
4 tháng 3 2018 lúc 21:05

Nhận xét về những chứng cớ : Cho thấy những kẻ trái nhân nghĩa làm điều bạo ngược đã phải gánh chịu thảm hại.

Bình luận (0)
Nguyễn Ngọc Thương
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Thương
20 tháng 2 2018 lúc 20:00

giúpkhocroimình vs

khocroi

Bình luận (1)
Trần Như Hiền
26 tháng 2 2018 lúc 10:23

a) Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo.

b) Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.

So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bài thơ Sông núi nước Nam, thì ở Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Bình luận (0)
meo con
4 tháng 3 2018 lúc 19:34

a) Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là yên dân và trừ bạo :
- Yên dân là làm cho dân được hưởng thái binh, hạnh phúc.
- Trừ bạo là tiêu diệt kẻ thù xâm lược giặc ( giặc Minh )
 Muốn cho yên dân thì phải trừ bạo. Theo tác giả, tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm lược, lấy dân làm gốc.

b) Tác giả đưa ra 5 yếu tố cơ bản để khẳng định chủ quyền dân tộc ngang hàng với Trung Quốc :
- Nền văn hiến lâu đời
- Lãnh thổ
- Phong tục tập quán
- Lịch sử
- Chủ quyền

Bình luận (0)
Thúy Đỗ
Xem chi tiết
vo le trinh
27 tháng 2 2019 lúc 10:09

(1) Kiểu câu của các câu trong đoạn trích là câu trần thuật.

Mục đích nói của mỗi câu:

[1] Trình bày

[2] Trình bày

[3] Trình bày

[4] Điều khiển

[5] Điều khiển

(2) Không phải mỗi kiểu câu lúc nào cũng tương ứng với mục đích nói. Vì hành động nói có thể thực hiện bằng cách trực tiếp (dùng kiểu câu có chức năng chính phù hợp với hành động đó) và gián tiếp (bằng các kiểu câu khác).

Bình luận (0)
/happdanh Danhkisayhello
Xem chi tiết
nguyen thi vang
24 tháng 2 2018 lúc 12:43

Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của qúy[1].

- Câu trần thuật => Trình bày.

Có khi được trình bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy[2].

- Câu trần thuật => Trình bày

Nhưng cũng có khi ta cất giấu kín đáo trong rương trong hòm[3].

- Câu trần thuật => Trình bày

Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được ra trưng bày[4].

- Câu trần thuật => Yêu cầu, đề nghị

Nghĩa là phải ra sức giải thích tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công cuộc kháng chiến[5].

- Câu trần thuật => Giải thích, giải nghĩa

* Mỗi kiểu câu không nhất thiết tương ứng với mục đích nói vì ở trong từng trường hợp thì chức năng của chúng khác nhau.

Bình luận (0)
nguyen lan anh
Xem chi tiết
Phan Thu An
28 tháng 2 2018 lúc 15:45

Câu (1) Là câu trần thuật để nêu luận điểm chính của đoạn văn

Câu ( 2 ) Là cau trần thuật để kể

Câu (3 ) Là câu trần thuật và phủ định để kể

Câu (4 ) Là câu trần thuật để điều khiển

Câu (5 ) Là câu trần thuật để giải thích và nêu định nghĩa

- Mỗi kiểu câu không phải lúc nào cũng tương ứng với 1 mục đích nói . Vì tùy vào ngữ cảnh và mục đích nói mà ta có thể lựa chọn các loại câu khác nhau ( cách dùng gián tiếp ) . VD : Dùng câu phủ định để khẳng định ; dúng câu hỏi để cảm thán ; ...........

Bình luận (0)
Hà Thị Thu
Xem chi tiết
Quỳnh Nhi
20 tháng 2 2018 lúc 19:44

Tuy ra đời trong những bối cảnh lịch sử khác nhau nhưng dường như cả hai áng văn thơ bất hủ: Nam quốc sơn hà và Nước Đại Việt ta đều thể hiện chung một khát khao độc lập và tự do của dất nước, của dân tộc. Đó là những lời khẳng định một cách đanh thép, mãnh liệt về chủ quyền của chúng ta.

Vào cuối năm 1076, cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lược đang bước sang giai đoạn gay go ác liệt thì nơi phòng tuyến sông cầu, trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát vang lên tiếng đọc thơ sang sảng. Tiếng thơ làm nức lòng binh sĩ, tạo nên kí thế áp đảo kẻ thù:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Nam quốc sơn hà)

Ngày xưa, phong kiến Trung Hoa chỉ coi vua mình là “đế”, là “thiên tử”, còn vua nước láng giềng chỉ là vương, là hầu. Nhưng, Lí Thường Kiệt (?) như muôn tước đi cái tự phụ, ngạo nghễ của Trung Hoa nên đã viết:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Phải chăng đây là lời tuyên chiến đầu tiên của dân tộc ta với Trung Hoa - “lời tuyên chiến” từ một tên gọi? Giáo sư Lê Trí Viễn khi bàn về câu thơ này đã nói: “Xưng Nam đế là xóa đi cái trịch thượng trong đầu chúng, Xưng Nam quốc là hất đi cái mồ ma quận huyện” trong ý đồ bành trướng vốn đã có từ lâu đời.

Xưng hô thế là đủ, nhưng muốn khẳng định cho vững chắc hơn chân lí trên, Lý Thường Kiệt nhấn mạnh:

Rành rành định phận tại sách trời Người xưa coi trọng trời đất. Trong Chiếu dời đô có ghi: “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi.. “Sách trời” như một công cụ luật pháp hữu ích, một vị quan tòa nghiêm minh. Câu thơ thứ ba như muốn cho thấy sự hung hăng vô độ của vua quan nhà Tống, coi thường mệnh trời, làm trái luân thường đạo lí:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Lý Thường Kiệt như đang chỉ rõ chân tướng của hàng vạn thiên tướng, thiên binh, hạ thấp uv tín của chúng. Chúng không phải là những kiêu binh, dũng tướng của thiên triều nữa, mà thực sự chỉ là một lũ giặc, lũ cướp như mọi lũ cướp đường, cướp chợ khác. Câu thơ hịch “nghịch lỗ” thành “lũ giặc” e không làm rõ hết được ý nghĩa của nguyên tác.

Tác giả lại như một nhà tiên tri khi đưa ra một lời cảnh cáo như sấm truyền về kết quả tất yếu của hành động xâm lược. Câu thơ ẩn chủ thể của hành động như đề người ta có thể hiểu rằng sức mạnh của quân dân ta, sự thuận lòng trời nhất định sẽ chiến tháng, sẽ khiến quân giặc thất bại thảm hại, “gieo nhân nào gặt quả ấy”, nên “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.

Cả bài thơ như một tiếng kèn xung trận quyết chiến, quyết thắng. Lời khẳng định chủ quyền của dân tộc đã kết thúc mà âm hưởng của nó vẫn vang xa, in đậm trong lòng mỗi người dân đất Việt.

Trải qua bốn thế kỉ, tình yêu nước như một cây cầu đưa các nhà quân sự, các tác giả của các bài ca bất hủ đến với nhau. Nếu như trong bản tuyên ngôn đầu tiên ta mới chỉ thấy vị trí của Nam đế - bởi vua là nước, nước là vua - mà chưa thấy yếu tố nhân dân trong sự nghiệp giải phóng đất nước, thì ở bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, ở Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã thể hiện một quan điểm nhân sinh rõ rệt. Xuân Diệu từng nói:

Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến chút tột cùng là dòng huyết chảy.

Tất cả tình yêu nước của những con người vĩ đại ấy đều được thể hiện sâu sắc qua đặc điểm lịch sứ, và những lần nhân dân sục sôi giành đất nước từ tay giặc. Dường như họ, trong giờ phút quan trọng, giờ phút tột cùng chảy trong mình bầu nhiệt huyết cứu nước, với ý thức độc lập, tự cường mãnh liệt, càng ngày tiến xa hơn.

Cũng như bài thơ Nam quốc sơn hà, mở đầu bài cáo vẫn là những lời khẳng định dứt khoát và chắc chắn về sự tồn tại ngang hàng của một quốc gia phương nam với một quốc gia phương bắc. Quốc gia này không chỉ có đế, không chỉ có lãnh thổ rõ ràng như trong Nam quốc sơn hà mà còn có một quá khứ oai hùng trong công cuộc chống ngoại xâm và đặc biệt, từ xa xưa đã có một nền văn hiến:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến bấy lâu.

Đồng thời:

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.

Những sự phân định rạch ròi giữa hai lãnh thổ đã được nêu ra, văn hiến và phong tục nước ta tốt đẹp, vượt qua cái chính sách đồng hóa điên rồ của bọn phong kiến phương Bắc. Nhân dân ta bảo vệ được núi sông, văn hiến, phong tục là nhờ những cuộc đấu tranh anh dũng chống kẻ thù. Nhưng nước ta đâu có dùng đến vũ lực như bọn Mông- Nguyên, gây đau thương cho bao nhiêu con người hay bọn giặc Minh, miệng thì nói lập lại nhà Trần thực ra là ra sức vơ vét tài lực của đất nước ta, bóc lột, đánh đập nhân dân ta vô cùng thậm tệ. Biết bao lần nhà Lí, nhà Trần cấp thuyền cho giặc về nước. Đó đều là những việc nhân nghĩa và đã được Nguyễn Trãi ghi nhận:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Theo em ý thức độc lập về quốc gia, đất nước không chỉ được khẳng định trong cương vực lãnh thổ, bản sắc văn hóa mà còn được khẳng định cả trong cách chống giặc ngoại xâm, mà đối với Nguyễn Trãi đó là cách đánh vào lòng người. Tác phẩm đã thể hiện niềm tin sắt đá vào chính nghĩa, vào sức mạnh dân tộc. Nhân nghĩa là yên dân, muốn yên dân phải trừ bạo, tức trừ ngoại xâm. Phải chăng có bảo vệ đất nước mới yên dân. Nhân nghĩa vì vậy gắn với tinh thần yêu nước chống quân xâm lược và sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc là một chân lí khách quan. Trong thể văn biền ngẫu này, Nguyễn Trãi đã sử dụng những cặp câu đối nhau rất tương xứng như:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương. Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Các câu văn tương xứng như chứng tỏ sự song song tồn tại của hai quốc gia. Phải chăng, phải có một tinh thần yêu nước sâu sắc, ý thức độc lập tự chủ lớn lao mới có thể viết nên những câu văn hiên ngang, mạnh mẽ như thế? Nếu như ở tác phẩm Nam quốc sơn hà mới chỉ nêu về việc sách trời “chia xứ sở” thì Đại cáo Bình Ngô đã nói lên cả một thế hệ, một quá trinh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chứng tỏ dân tộc ta cũng có một vị trí ngang hàng với Trung Quốc. Với những vị hào kiệt, những vị anh hùng, Nguyễn Trãi đã lại một lần chứng tỏ sự giàu mạnh của đất nước ta qua các nhân tài. Nhân tài cũng chính là những người lập chiến công hiển hách trong sự nghiệp giữ nước, đánh tan mọi kẻ thừ xâm lược. Ý thức độc lập, ý thức về một dân tộc oai hùng dường như đang sục sôi trong lòng Nguyễn Trãi. Vậy nên dưới bàn tay, trí óc của nhân tài nước ta:

Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cứa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Những chiến công lừng lẫy lần lượt đưa ra. Với các từ mạnh như: thất bại, tiêu vong, bắt sống, giết tươi,... Nguyễn Trãi đã thể hiện một sự căm thù giặc cao độ:

Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.

Bài Đại cáo Bình Ngô không chỉ là lời tổng kết chiến thắng mà còn là lời khẳng định sắt đá một nền độc lập mới sau chiến thắng oai hùng, là một bản phác thảo về đất nước trong tương lai:

Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới ơ thế kỉ XV, Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi với những giá trị hết sức lớn lao về tư tưởng và nghệ thuật, xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Khẳng định ý chí tự lực, tự cường mạnh mẽ.

Đã bao nhiêu năm qua, nhưng những lời trong bản tuyên ngôn của cha ông ta để lại vẫn sáng ngời như ngọc quý. Thời gian có thể xóa nhòa, làm mờ đi nhiều điều của quá khứ nhưng không thể làm mờ đi những chân lí bất diệt trong Nam quốc sơn hà và đặc biệt là Đại cáo Bình Ngô bất hủ muôn đời của người dân nước Việt.

Bình luận (0)
Đạt Trần
23 tháng 2 2018 lúc 21:42

Nguyễn Trãi dẫn sự thật lịch sử để chứng minh .Đó chính là sức mạnh của nguyên lý nhân nghĩa và chân lý độc lập chủ quyền .Nếu ở bài Sông núi nước Nam ,Lý Thường Kiệt mới chỉ công báo :
" Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư "
thì ở đây là nhiều dẫn chứng cụ thể ,sinh động ,được nêu với giọng văn châm biếm ,khinh bỉ ,khẳng định thất bại của vua quan ,tướng tá TQ khi chúng cố tình tham lam ,thích bành trướng ,mang tư tưởng nước lớn ,bá quyền ,cố tình đi ngược lại chân lý hiển nhiên thì chỉ chuốc lấy bại thảm hại .Những địa danh sông Bạch Đằng ,bến Chương Dương ,cửa Hàm Tử mãi mãi là nấm mồ chôn quân xâm lược .Kẻ thù thất bại ,tiêu vong vì động cơ ích kỷ ,vì " thích lớn " ,"tham công " .Dựa vào tướng giỏi ,quân đông ,không " lấy nhân nghĩa làm gốc " , hậu quả ấy không thể tránh khỏi .
Hai câu kết đoạn có ý nghĩa : Khẳng định sự thật oai hùng và vang lên niềm tự hào của dân tộc Đại Việt .Ở đoạm kết vưa có cái nguyên cớ của sự bại vong như những hiện vật trong viện bảo tàng ,với kẻ địch là một sự nhục nhã muôn đời khôn rửa ,còn với ta ,đó là minh chứng cho một lẽ phải hùng hồn mà dân tộc Đại Việt đã gửi trọn niềm tin vào đó . Lời tiên tri ( 2 câu đầu ) đã có ứng nghiệm theo luật quả báo ( nhân nào quả ấy ) tứ thời .
Nói tóm lại ,về ý nghĩa ;chứng tỏ sự phát triển và trưởng thành thêm một bước về ý thức dân tộc ,lịch sử ,tư tưởng ,văn hóa của dân tộc Đại Việt từ đời Lý đến đời Lê ,trải qua 5 thế kỷ
Cách lập luận này cho thấy bài cáo cần có tính logic cao độ .Phía sau phần "Từng nghe " là những chân lý đã được kiểm định vững chắc trong lịch sử .còn "vậy nên " là kết quả tất yếu phù hợp với tiền đề " từng nghe " đã nói ở trên .Những dẫn chứng thực tiển đó là chứng cớ còn ghi trong sử sách không thể bác bỏ ,không thể chối cãi .Hai cặp phạm trù logic kín kẻ : Khi nói đến nguyên lý nhân nghĩa thì Nguyễn Trãi viết " từng nghe " ;còn khi khẳng định sức mạnh nhân nghĩa sức mạnh của độc lập dân tộc thì ông dùng từ " còn ghi " ( sử sách ghi lại không thể chối cải ) .Chính xác hơn ,được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ nhân quả
Vơi cách lập luận chặt chẽ và chứng cứ hùng hồn ,đoạn trích Nước Đại Việt ta có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta .Bề nỗi của lời văn là sụ nghiêm khắc răn dạy ,còn chiều sâu thấm thía một đạo lý ,một tư tưởng ,một lẽ phải làm người : Nhân nghĩa .Vậy Nước Đại Việt ta có sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc ở bài thơ Nam Quốc Sơn Hà

Bình luận (0)
Văn Thắng
Xem chi tiết
Đạt Trần
23 tháng 2 2018 lúc 21:48

** Nam Quốc Sơn Hà:
khẳng định chủ quyền dựa vào 2 yếu tố
- cương vực
- lãnh thổ
*** Bình Ngô Đại Cáo
Khẳng định chủ quyền dựa vào 5 yếu tố
- cương vực
- lãnh thổ
- văn hiến
- phong tục
- lịch sử
Ngoai` 2 yếu tô' đã đư­ợc nói như trong bai` Nam quốc sơn hà thi` bai` Binh` Ngô Đại Cáo có thêm 3 yếu tô' va` điêu` quan trọng la` 3 yếu tô' đó thuộc vê` giá trị tinh thân` la` những điều không thể thay đổi.
===> Có thể nói Nguyễn Trãi đã tiếp nhận tư tưởng của đời trước song đã bổ sung va` có tính toàn điện hơn trước . Ông đã có cái nhìn tích cự­c vê` mặt lịch sử , địa lí , vă­­n hóa , xã hội, va` vê` chủ quyên` . Đó la` cái nhin` có chiêu` sâu , la` 1 phát hiện vĩ đại , la` sức sống trương` tôn` không gi` khuất phục được dân tộc Đại Việt

Bình luận (0)
nguyen thi vang
24 tháng 2 2018 lúc 12:31

* Khẳng định độc lập, chủ quyền :

* Yếu tố khẳng định độc lập chủ quyền :

- Nước Đại Việt ta :

+ Văn hiến

+ Lịch sử

+ Ranh giới

+ Phong tục tập quán

=> Khẳng định độc lập chủ quyền rõ ràng

- So sánh với Nam quốc sơn hà :

+ Làm chủ (vua) -> chủ quyền

- Biến giới.

Bình luận (0)
Nguyễn Hiền Lương
Xem chi tiết
Trần Thị Ngọc Trâm
24 tháng 2 2017 lúc 14:17

phần lí thuyết bài này trên hoc24h có hưỡng dẫn soạn mà bạn

Bình luận (0)
Võ Bằng
27 tháng 2 2017 lúc 18:44

vvv

Bình luận (0)
Shizuka
1 tháng 3 2017 lúc 13:12

Phần lý thuyết trong HOC24 có mà

Bình luận (0)
Nguyễn Phương Thảo
Xem chi tiết
Nguyễn Tâm Như
3 tháng 5 2016 lúc 10:32

Bạn làm đi

Bình luận (0)
Nguyễn Phương Thảo
3 tháng 5 2016 lúc 10:44

  Bài Bình Ngô Đại Cáo_Bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc Nguyễn Trãi đã bổ sung nâng quan điểm khá hoàn chỉnh về tổ quốc.Trong đoạn trích"Nước Đại Việt Ta" quan niệm về tổ quốc và độc lập chủ quyền dân tộc được ông trình bày theo các yếu tố sau: Có nền văn hiến riêng,phong tục tập quán riêng,lãnh thổ cương vực riêng, truyền thống lịch sử riêng,chế độ chính quyền của các hoàng đế riêng.Ông khẳng định chân lý tồn tại độc lập chủ quyền dân tộc bằng cách viện dẫn những chứng cứ xác thực trong lịch sử:Đó là những chiến công oai hùng vẻ vang của ông cha ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc và những thất bại cay đắng nhục nhã của quân xâm lược.Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm toàn diện sâu sắc dựa trên thực tiễn cụ thể về tổ quốc và độc lập chủ quyền dân tộc.

Bình luận (0)
Nguyễn Tâm Như
3 tháng 5 2016 lúc 10:48

Bài chứng minh mà ngắn vậy ?

Bình luận (1)