Hướng dẫn soạn bài Cảnh khuya

Nguyễn Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Minh Thư
2 tháng 1 2017 lúc 20:13

Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luôn chuyển, con người cũng chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng một lần đi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật thì còn lại với thời gian. Văn học dân gian chính là một hệ thống các hình ảnh, âm thanh quyện lẫn với tâm trí, tình cảm của con người. Những lời ca, điệu hò mẹ hát ru chúng ta trong những buổi trưa hè chắc sẽ trường tồn và sống mãi trong tim mỗi người. Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử, của cuộc sống, những làn điệu dân ca, ca dao vẫn còn đó, vẫn êm đềm như khúc hát mẹ ru. Ca dao được thể hiện thật đầy đủ, phong phú với đủ cung bậc của nó. Đặc biệt tình yêu quê hương, gia đình chính là mảng đề tài được nhiều tác giả khuyết danh chú ý đến.

Ngược dòng thời gian qua từng trang sách, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu sắc những bài ca dao tuyệt diệu ấy!

Ca dao chính là những câu hát có vần, có điệu được cha ông đúc kết từ cuộc sống để lại đến ngày nay. Những câu ca dao ấy có sức sống mãnh liệt kì lạ! Nó ban đầu được truyền miệng từ người này sang người khác, từ thời này sang thời kia và cứ thế, cứ thế… Mỗi người dân Việt Nam ai cũng có sẵn trong bụng mình một kho tàng vô giá, hễ mở miệng là có trong mỗi bài ca thấm đượm tình cảm tha thiết, sâu sắc về quê hương, về gia đình ta đọc nó và thấy mình như lớn khôn, trưởng thành trong vòng tay của người mẹ văn học.

Quê hương! Hai tiếng gọi giản dị mà thiêng liêng, tha thiết! Bởi vì đó chính là nơi ta đã sinh ra, đã oa oa cất tiếng khóc chào đời và cũng là nơi ta trưởng thành. Quên sao được hình ảnh bến nước, gốc đa, dòng sông quê hương, luỹ tre làng… Tất cả, tất cả như máu thịt ăn sâu vào tâm hồn của mỗi một con người. Ta lớn lên với vòng tay vỗ về và dòng sữa ngọt ngào của mẹ và quê hương cũng chính là người mẹ thứ hai – người mẹ tinh thần đã nuôi lớn ta. Do vậy, người dân Việt Nam dù đi đâu xa vẫn nhớ về quê hương với tình cảm của người con nhớ về đất mẹ:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Thật mộc mạc, chân chất mà cao quí biết bao! Thế đó, tình cảm quê hương trong anh lớn mãi, lớn mãi. Nó không bị thời gian, không gian chia cách mà ngược lại đó là nguồn nuôi dưỡng tình cảm ấy lớn mạnh thêm. Ta đón nhận vào lòng mình vị ngọt của tình yêu đất mẹ. Sung sướng thay! Tự hào thay! Ta hướng về quê hương không phải vì những gì xa hoa, lộng lẫy, những món ăn sơn hào hải vị mà nhớ về quê hương với canh rau muống – cà dầm tương. Chao ôi! Cái hương vị ấy sao đậm đà quá, nó không thể trộn lẫn với bất kì một cái gì khác – hương vị của món ăn đồng quê, giản dị rất con người. Lời ca lại khiến ta nhớ đến món cá kho khế, nồi canh cua đồng mẹ thường nấu vào buổi trưa hè nắng gắt. Những món ăn bình dân mà đậm vị quê hương nhà thân thiết, chan hoà, tràn ngập yêu thương. Lời ca còn đưa về với làng xóm, ở đó, có những con người một nắng hai sương, chân lấm tay bùn.

Ta thường tự hào vì mình là người con của đất Việt, của dòng giống cao quí con Rồng cháu Tiên. Là người con của những con người không bao giờ khuất. Truyền thống ấy đã đi vào lời ca, điệu hò mà nam nữ thanh niên vẫn hát mỗi dịp hội hè, trong những buổi lao động:

Em đố anh từ Nam chí Bắc

Sông nào là sông sâu nhất

Núi nào là núi cao nhất nước ta?

Hình ảnh núi sông đã đi vào lịch sử oai hùng của dân tộc Vỉệt Nam ta. Trải qua bao thế kỉ, những lời ca về một thời oanh liệt như vẫn còn đó, vẫn ngân vang bài ca của một thời không thể nào quên.

Cây đã cũ, bến đò xưa

Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.

Tấm lòng sắt son, chung thuỷ với quê hương thật đáng khâm phục thay! Cây đa cũ – bến đò xưa vẫn đứng vậy, đón đợi những người con thân yêu sẽ trở về như người mẹ Việt Nam luôn chờ đợi những đứa con thân yêu của mình vậy.

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mờ khói toả ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Trước mắt ta như hiện ra khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, bình yên ấy. Những cành trúc cứ la đà đung đưa soi bóng trên mặt hồ, và những làn gió mơn man nhè nhẹ như đang cùng những cành trúc hoà tấu bản nhạc – bản tình về tình yêu cuộc sống, yêu quê hương: tiếng chuông Trấn Vũ – canh gà Thọ Xương hoà quyện với nhịp chày Yên Thái tạo nên một khung cảnh bình yên đến là! Ta chợt thấy lòng mình thanh thản, yêu đời và thêm yêu cuộc sống. Làn khói toả ngàn sương mơ màng như xua đi những ưu phiền, bon chen của cuộc sống đời thường để ta lại trở lại về là ta – là người dân Việt Nam với phẩm cách tuyệt vời như bông sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Thế đó, yêu quê hương chính là gắn bó, tự hào về quê hương. Ôi! Thương quá quê hương với mảnh đất khô cằn, sỏi đá, với những con người chán lấm tay bùn. Ta lớn lên nhưng với quê hương – người mẹ hiền dịu, ta mãi là đứa trẻ thơ. Chính tình cảm tha thiết mãnh liệt về quê hương sẽ là nhân tố thúc đẩy và hình thành nhân cách của mỗi chúng ta. Hãy trở về với quê hương, với lời ru của mẹ, bạn sẽ thấy lòng mình ấm áp, tràn ngập yêu thương.

Bên cạnh tình yêu quê hương, tình cảm gia đình cũng là một đề tài quen thuộc và gần gũi mà các ca dao dân gian đã để lại cho chúng ta. Tình cảm gia đình là gì? Đó chính là sự yêu thương gắn bó, quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong một gia đình. Tình cảm ấy thật tốt đẹp và phong phú: tình mẹ con, cha con, anh em, vợ chồng, ông bà – con cháu… con người sinh ra và lớn lên không thể thiếu những nguồn tình cảm yêu thương này.

Không có gì nghệ thuật hơn tình yêu thương con người mà trước hết là mối quan hệ giữa các thành viên trong một gia đình. Gia đình có tốt thì xã hội mới đẹp. Ta vẫn ngân nga những lời ca dao ngọt ngào, sâu lắng:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Công lao trời biển của cha mẹ, ta phải đền đáp bằng cách nào đây. Chữ hiếu đó là truyền thống đạo đức tốt đẹp tự bao giờ của dân tộc Việt Nam. Ngọn núi Thái Sơn cao lớn sừng sững ấy, dòng nước nguồn dạt dào trong trẻo ấy khiến ta thấm thía nguyện cầu: Cầu cho cha mẹ sống đời với con. Công lao to lớn ấy ta chỉ biết bày tỏ có vậy thôi ư? Hãy kính trọng, thương yêu và luôn nghĩ về cha mẹ, có như vậy ta mới không hổ thẹn, hối hận khi nghĩ về mái tóc đen huyền của mẹ, sức khoẻ của người cha đã dần dần thay đổi để chúng ta được nên vóc nên hình.

Ơn cha nặng lắm ai ơi

Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.

Chí lí thay! Những câu ca dao âm vang lời khuyên bảo, nhắn nhủ chân tình. Đừng làm mẹ cha buồn lòng. Sống sao cho xứng với ơn cha, nghĩa mẹ đã dành cho ta.

Trong gia đình, anh chị em thương yêu giúp đỡ nhau, có như vậy cha mẹ mới vui lòng:

Chị em như chuối nhiều tàu

Lá lành che lá rách chớ nói nhau nặng lời.

Nếu không lá lành che lá rách thì làm sao chống đỡ với mưa gió? Máu chảy ruột mềm, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, đó là lời khuyên nhủ sâu sắc, cảm động. Bài học làm người – sống đề làm gì? Và sống như thế nào? Chắc câu trả lời đầy đủ toàn vẹn nhất là tình yêu con người.

Ngó lên nuộc lạt mái nhà

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.

Ông bà sinh ra cha mẹ của ta, phải chịu bao cực nhọc, con cháu nhớ đến ông bà, đó là đạo lí đạo đức. Uống nước nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây. Nỗi nhớ được hình ảnh hoá, lớp lớp tầng tầng in sâu trong mắt, trong lòng cháu con. Và ta chợ nhận ra rằng:

Phải nhớ kẻ trồng cây. Nỗi nhớ được hình ảnh hoá, lớp lớp tầng tầng in sâu trong mắt, trong lòng cháu con. Và ta chợt nhận ra rằng:

Cây khô đâu dễ mọc chồi

Bác mẹ chưa dễ ở đời với ai

Non cao bao tuổi mà già

Bởi vì sương tuyết hoá ra bạc đầu.

Tim ta chợt nhói đau khi nhìn mái tóc hoa râm của mẹ, cha, ông, bà. Ta ước ao, níu kéo mong thời gian sẽ trở lại nhưng tiếc thay đó lại là qui luật của trời đất, để rồi… Mẹ có thể không còn nữa, nhưng trong tất cả các kì quan, kì quan đẹp đẽ nhất là tấm lòng người mẹ. Mẹ chính là người họa sĩ, nhà kiến trúc đã sáng tạo và xây dựng nên con.

Có lúc nào đó ta ngồi nghĩ về cha mẹ, ông bà và về chính bản thân mình như câu ca dao đã nhắc nhở:

Ngày nào em bé cỏn con

Bây giờ em đã lớn khôn thế này

Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.

Ca dao còn hát lên tình cảm vợ chồng:

Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.

Cay đắng, gian khổ của cuộc sống có làm nhạt phai hương vị của hạnh phúc không? Không! Trái lại gian nan, cay đắng càng giúp cho hạnh phúc nảy nở. Tình cảm gắn bó thuỷ chung ấy tha thiết, mặn mà đáng cho ta trân trọng, cảm phúc. Rồi đây nữa:

Rủ nhau lên núi đốt than

Chồng mang quang gánh vợ mang quang giành

Củi than nhơn nhuốc với tình

Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.

Với đốt than, xuống bể, lên rừng vất vả nhưng người lao động vẫn sát cánh bèn nhau, cùng sẻ chia ngọt – bùi – cay – đắng. Vị mặn – vị đắng của mồ hôi đã tạo thành vị ngọt của hạnh phúc. Và hạnh phúc ấy luôn ngọt ngào bởi tình cảm của họ vàng đá chẳng phai.

Những cây ca dao từ Nam chí Bắc có đất, có nước, có biển có mồ hôi người… dần dần tụ lại nơi khoé mắt người một giọt sáng ngời. Giọt đó là? Giọt sương? Giọt nước mắt? Hay giọt nghĩa tình hạnh phúc? Có lẽ là tất cả, ca dao đã phản ánh thật đầy đủ và rõ nét đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Ngày nay, văn học hiện đại đã kế thừa và học tập người mẹ ấy. Ta vẫn bắt gặp tình cảm tha thiết, sâu lắng trong thơ ca:

Con đi con lớn lên rồi

Chỉ thương mẹ ở nhà ngồi nhớ con.

Tấm lòng người mẹ và lòng anh chiến sĩ với mẹ được Tố Hữu vẽ lên như thế đó.

Hay:

Quê hương tôi có con sông xanh biếc

Nước gương trong soi tóc những hàng tre

Tâm hồn tôi là môt trưa hè

Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng.

(Nhớ con sông quê – Tế Hanh)

Và còn thật nhiều, thật nhiều nữa, những sáng tác của các nhà thơ sau này, sự phát triển của văn học ngày một thêm phong phú, các thể hiện cũng đa dạng.

Song chúng ta càng thêm yêu mến dân ca – ca dao hay nói rộng hơn là văn học dân gian. Bởi chính văn học dân gian là sự khởi đầu đẹp đẽ cho nền văn học. Đến với ca dao, ta như đến với thế giới của tâm hồn. Ca dao đã thể hiện rõ nét tâm tư tình cảm của con người Việt Nam bởi một lẽ các tác giả dân gian xưa cũng chính là người dân Việt Nam – người lao động. Tâm tình của họ tưới lên mảnh đất khô cằn và những lời ca tuyệt vời ấy cũng như là hoa quả mà học thu được từ mồ hôi, giúp chúng ta khôn lớn, trưởng thành hơn trong suy nghĩ, hiểu biết và cảm xúc.

Dư vị ngọt ngào của ca dao như vẫn còn đó. Ta vui sướng thay bởi thấy mình như đang lớn khôn thêm giữa trời đất, quê hương, gia đình thương yêu.

Bạn tham khảo nhé! Chúc bạn học tốt!

Bình luận (2)
Nguyễn Hoàng Bảo Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Thu Trà
8 tháng 5 2016 lúc 20:55

    Em hãy làm 1 văn bản cáo cáo theo đề : Gần cuối nắm học , Ban Giám hiệu cần biết tình hình học tập , sinh hoạt và công tác củ lớp trong 2 tháng cuối năm.

                                                                            Bài làm.

                                                 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                                                             Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

                                                                                                                    ( ở đây bạn ghi nơi gửi, ngày , tháng, năm )

                                                          BÁO CÁO                      Về tình hình học tập , sinh hoạt và công tác của lớp trong 2 tháng cuối năm.

   

  -  Kính gửi: Ban Giám hiệu Trường ( bạn ghi tên trường nhé )

      Để kết thúc năm học 2015, trong hai tháng này, tập thể lớp 7A chúng em đã rất tích cực trong việc học cũng như tham gia vào các hoạt động sinh hoạt của trường, cụ thể như sau :

1) Về học tập: cả lớp đã có 86 tiết học được xếp loại tốt. Cả lớp được 16 điểm 10, 25 điểm 9 trong đó bạn Lê Văn là người đạt nhiều điểm 9 và 10 nhất. Trong số 45 bạn chỉ có 2 bạn bị điểm dưới trung bình.

2) Về kỉ luật: Cả lớp không bạn nào đi học muộn, không bạn nào bị thầy, cô giáo nhắc nhở trong giờ học, không xảy ra điều gì ảnh hưởng tới việc học tập của lớp.

3) Về lao động : Lớp đã tham gia lao động tập thể 3 buổi theo lịch của nhà trường: dọn vệ sinh, chăm sóc và bảo vệ cây, thực hiện tốt nội quy vệ sinh trường lớp để chuẩn bị đón năm học mới. Kết quả lao động đều tốt, 3 bạn nghỉ có lí do. 

4) Hoạt động sinh hoạt của trường lớp : Lớp 7A chúng em đã chuẩn bị tốt 3 tiết mục văn nghệ để biểu diễn trong lễ bế giảng năm học 2015.

                                                                                                                                       Thay mặt tập thể lớp 7A

                                                                                                                                             Lớp trưởng

                                                                                                                                        (Kí và ghi rõ họ tên)

 

Bình luận (0)
Nguyễn Hoàng Bảo Nhi
6 tháng 5 2016 lúc 9:19

giúp  với ạ , cảm ơn !!!

Bình luận (0)
Nguyễn Lê Thu Huyền
Xem chi tiết
Phan Ngọc Cẩm Tú
12 tháng 11 2016 lúc 10:41

mìk cx đang bí đây bucminh

Bình luận (0)
Musa Fairy Of Music
8 tháng 12 2016 lúc 20:56

sao bạn k ghi câu hỏi ghi ai mà bít đâu p ai cũng có sách vnen đâu

Mà bn hỏi câu nào cả phần C à

Bình luận (0)
Lan Anh
Xem chi tiết
Thảo Phương
1 tháng 9 2016 lúc 18:17

- Các biện pháp tu từ sử dụng trong bài thơ: 
+ Điệp ngữ: “ lồng”, “ chưa ngủ”.
+ So sánh : Tiếng suối – tiếng hát; cảnh vật đẹp- bức tranh.

- Tác dụng: 
+ Điệp ngữ “ lồng” tạo nên vẻ đẹp lung linh , huyền ảo cho cảnh vật về đêm.
+ Điệp ngữ “ chưa ngủ” thể hiện ngoại cảnh và nội tâm của Bác, một tâm hồn nghệ sĩ hòa lẫn vào trong tâm hồn chiến sĩ. Người chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên đẹp và chưa ngủ vì lo cho dân, cho nước.
+ So sánh tiếng suối chảy róc rách, văng vẳng như tiếng hát ngọt ngào của ai đó trong đêm khuya tĩnh lặng làm cho cảnh vật trở nên gần gũi, thân thiết.
+ So sánh cảnh vật đẹp như một bức tranh qua cái nhìn của nhà thơ thể hiện tâm hồn nhạy cảm của Bác.

Bình luận (1)
Võ Đông Anh Tuấn
1 tháng 9 2016 lúc 17:11

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng thiên tài của dân tộc nhưng đồng thời, Người cũng là một nhà thơ sánh vai cùng những thi nhân của Đông Tây kim cổ. Trong những năm tháng chiến đấu chống Pháp gian khổ của dân tộc, bên cạnh những chủ trương, chiến lược đánh đuổi giặc tài tình, Người còn có những vần thơ khiến lòng người rung động. “Cảnh khuya” là một thi phẩm trong số ấy:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đang hồi gay go, quyết liệt: năm 1947. Trên chiến khu Việt Bắc, sau những giờ phút mỏi mệt, trong cảnh đêm của núi rừng, Người bồi hồi xúc động trước cảnh đêm khuya êm ái. Điều đầu tiên Bác cảm nhận được nơi thiên nhiên hoang sơ là tiếng suối róc rách tuôn theo dòng chảy:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng nghe tiếng suối Người cảm nhận được độ “trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng những vậy, tiếng suối trong nhưng là “trong như tiếng hát xa”. “Tiếng hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có sức lan toả mạnh mẽ, để từ xa con người vẫn có thể cảm nhận được. Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không, nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa, con người còn có thể cảm nhận được? Điều thú vị trong câu thơ của Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên được so sánh với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân vãn sâu sắc trong những vần thơ của Bác.

Cảnh đêm khuya hẳn trong trẻo, tĩnh lặng đến nhường nào Người mới có thế lắng nghe được tiếng suối long lanh ấy. Điều này không khó hiểu bởi không gian núi rừng thường được bao phủ bởi nhịều âm thanh phong phú: tiếng chim kêu, tiếng gió thổi, tiếng cây rừng xao xác tiếng muông thú gọi bầy... Trong bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc”, Bác đã từng viết:

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”.

Vậy thì có lẽ, đây là chút yên ả hiếm hoi của thiên nhiên núi rừng vào thời khắc đêm khuya. Thiên nhiên yên tĩnh nhưng cũng là tâm hồn con người yên tĩnh, thanh thản hoà mình vào vẻ đẹp của tự nhiên. Thiên nhiên vào giây phút ấy thật hữu tình biết mấy:

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Hai từ "lồng" cùng nằm trong một câu thơ tạo những ấn tượng rất đặc biệt. "Lồng" là dộng từ chỉ việc các vật nằm vào trong một cách thặt khớp để tạo thành một chỉnh thể. Câu thơ hữu tình như một bức tranh duyên: ánh trăng mênh mông toả sáng bao trùm lên cây cổ thụ, bóng cây cổ thụ lại dịu dàng phủ mình lên những nhành hoa. Bác dùng từ "lồng" rất "đắt", nó trở thành "nhãn tự" cho câu thơ. Chỉ với một từ ấy, cảnh vật như đang giao hoà, nương dựa vào nhau một cách duyên dáng, đáng yêu. Đôi mắt người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh thật hữu tình, bác ái.

Cảnh khuya sống động, có hồn bao nhiêu càng chứng tỏ một điều: người thưởng cảnh đang xa rời giấc ngủ yên bình thường nhật. Bởi vậy nên:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Cảnh khuya trong trẻo, tĩnh lặng càng làm nổi bật hình ảnh Bác Hồ thao thức không yên trong đêm vắng. Người hoà mình vào thiên nhiên để cất tiếng thơ ngợi ca thiên nhiên núi rừng song đó chỉ là giây phút phiêu du vào mây gió còn tâm hồn người thực sự đang gửi gắm ở một chân trời khác: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Câu thơ vang lên như một sự bừng tỉnh cho người đọc. Ta cứ ngỡ Bác đang thảnh thơi thương cảnh chơi trăng nhưng kì thực tấm lòng người vẫn đau đáu cho nỗi niềm non nước. Bác "chưa ngủ" vì một lẽ rất Hồ Chí Minh: “vì lo nỗi nước nhà”. Nói vậy bởi Bác đã có nhiều đêm không ngủ, nhiều đêm trở trăn vì cuộc kháng chiến của dân tộc:

“Một canh, hai canh, lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng lành

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.

Vậy là, dù có tạm để lòng mình hướng đến cảnh vật xung quanh (một lời hỏi thăm người bạn muôn đời của thi nhân kim cổ) tâm hồn Bác vẫn luôn dành trọn tâm tình cho non sông, dân tộc. Và nói như nhà thơ Minh Huệ:

“Đêm nay Bác ngồi đó

Đêm nay Bác không ngủ

Vì một lẽ thường tình

Bác là Hồ Chí Minh”

Bài thơ khép lại với bao dư âm mênh mang lan toả. Đã hơn một lần chúng ta xúc động trước tấm lòng cao cả, bác ái của Bác Hồ nhưng mỗi lần đọc lại “Cảnh khuya” ta lại bồi hồi với những tâm tình của một người mà cả cuộc đời chưa bao giờ nghỉ ngơi, chưa bao giờ an mình trong giấc ngủ.

Bình luận (0)
Võ Đông Anh Tuấn
1 tháng 9 2016 lúc 17:11

Chuẩn copy

Bình luận (2)
CALER
Xem chi tiết
Linh Phương
20 tháng 1 2017 lúc 18:27

Văn bản nào bạn?

Bình luận (5)
Trần Võ Lam Thuyên
1 tháng 3 2017 lúc 9:14

văn bản nào j bạn??????????

Bình luận (0)
Azuzawa Misaki
8 tháng 3 2017 lúc 21:57

Cái này chắc chắn là văn bản ảo này.Bạn đùa hơi bị zui đó!!!Văn bản đâu???batngobucquaucchegianroi

Bình luận (0)
than thi phuong thao
Xem chi tiết
Phạm Lê Lợi
6 tháng 6 2017 lúc 12:50

Cảnh khuya là bài thơ tứ tuyệt rất hay, là 1 bài thơ về trăng đẹp nhất của bác, bài thơ miêu tả cảnh trăng ở giữa trốn rừng Việt Bắc, lòng của Bác tràn ngập nỗi nhớ nước nhà. đó là nét đẹp của bài thơ cảm hứng thiên nhiên tran hòa trong loàng yêu nước của Bác, thương dân như con, thể hiện tình cảm yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong thái ung dung lạc quan, đọc bài thơ ta lại cảm thấy biết ơn, lại yêu Bác nhiều hơn...

Bình luận (0)
than thi phuong thao
Xem chi tiết
Nguyễn T.Kiều Linh
12 tháng 2 2017 lúc 20:53

Đề là gì? Soạn bài à?

Bình luận (0)
than thi phuong thao
Xem chi tiết
_silverlining
10 tháng 2 2017 lúc 20:55

Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc.

Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan toả bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:

Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai

Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo...

Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa - hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Chữ lồng điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm:

Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,

Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng...

Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên tri âm tri kỷ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ...

(Ngắm trăng)

Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà.

Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:

Một canh, hai canh, lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh

(Không ngủ được)

Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.

Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng... như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác -Hồ hơn.


Bình luận (1)
Nguyễn Trần Thành Đạt
10 tháng 2 2017 lúc 21:35

Trong những bài thơ Bác Hồ làm ở chiến khu VIệt Bắc thời kì kháng chiến chống Pháp, “Cảnh khuya” là bài thơ gây cho em sự xúc động và ngượng mộ. Càng đọc bài thơ “Cảnh khuya”, em càng thấy Bác là người yêu thiên nhiên, có tâm hồn nghệ sĩ và Bác cũng là người chiến sĩ cách mạng luôn lo lắng cho vận mệnh đất nước. "Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa." Cảnh thiên nhiên bỗng trở nên gần gũi, thân thiết với con người hơn nhờ biện pháp so sánh tài tình và độc đáo: tiếng suối trong như tiếng hát xa. Ta nghe như thấy âm thanh trong trẻo, du dương của tiếng suối. Và phải chăng suối cũng như một con người nên tiếng suối mới trong trẻo như tiếng hát? Tiếng suối làm nổi bật cảnh tĩnh lặng, sâu lắng trong đêm khuya, ánh trăng làm cho cảnh vật thơ mộng: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng chiếu lên vòm cổ thụ, nhưng như lồng vào đó ánh sáng mát dịu của mình. Trăng rọi qua kẽ lá in xuống mặt đất tạo thành muôn vàn đốm sáng lung linh như hoa. Hoa sáng của ánh trăng lồng vào hoa trên mặt đất đang mở cánh uống sươn đêm. Cảnh vừa thực nhưng lại vừa ảo, mà nghiêng về ảo. Trăng sáng, cây cổ thụ, bóng hoa và hoa trên mặt đất tuy ở ba tầng bậc khác nhau mà như gắn bó, đan xen vào nhau, tôn vẻ đẹp của nhau. Sự gắn bó ấy chính là từ “lồng” nối trăng với cổ thụ, nối bóng cổ thụ với hoa. “Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ” Mới đọc đến câu thơ thứ ba thì ai cũng đoán Bác chưa ngủ, Bác không ngủ được vì cảnh đẹp. Bác chỉ so sánh cảnh như “vẽ”. Như vẽ là thế nào, mỗi người đọc tự tưởng tượng. Nhưng như vẽ có nghĩa là rất đẹp, cũng giống như trong ca dao ví cảnh “như tranh họa đồ”. Tuy thế, câu thơ thứ tư Bác cho biết: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Hóa ra không phải Bác thức khuya để ngắm cảnh đẹp. Bác thức khuya vì lo nỗi nước nhà. Đã bao đêm Bác thao thức. Đêm nay Bác cũng thức khuya để lo việc nước, nhưng chợt gặp cảnh thiên nhiên tươi đẹp, lòng người xúc động mà bật ra những vần thơ của bài “Cảnh khuya” chứ không phải Bác ngắm cảnh để làm thơ. Bác bận trăm công ngàn việc, lo lắng vì vận mệnh đất nước, nhưng trong khoảnh khắc, Người vẫn cảm nhận được sự tươi đẹp, thơ mộng của thiên nhiên. Người nghệ sĩ và người chiến sĩ trong Bác luôn luôn gắn bó. Điều này khiến cho em hay bất cứ ai đọc thơ đều yêu kính, khâm phục tâm hồn của Bác, tấm lòng của Bác. Đọc bài thơ “Cảnh khuya”, em vừa say mê, thích thúc với cảnh, vừa kính phục phẩm chất và tâm hồn của Bác. Bài thơ chỉ cho chúng ta biết một đêm thức khuya, không ngủ của Người. Nhưng Bác còn bao nhiêu đêm thao thức, Bác còn bao nhiêu đêm không ngủ vì “thương đoàn dân công”, vì “lo nỗi nước nhà”?

Bình luận (0)
Thảo Phương
11 tháng 2 2017 lúc 19:09

Chiến thắng Việt Bắc, Thu — Đông 1947 đã ghi vào lịch sử bằng những nét vàng son chói lọi của quân và dân ta. Khi chiến dịch đang còn diễn ra vô cùng ác liệt, để thế hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu nước tha thiết, Người đã sáng tác bài thơ Cảnh khuya để tả cảnh suối rừng Việt Bắc vào một đêm trăng đẹp và nỗi lòng thao thức của Người. Đến với hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ như vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo nên thơ, nên họa, nên nhạc. Và hiện lên trên bức tranh đó là hình ảnh người thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống hoà đồng giữa thiên nhiên chan hoà của chiến khu Việt Bắc. Quả đúng như vậy, núi rừng Việt Bắc với tiếng suối chảy êm đềm như bản nhạc của con người từ xa vọng lại: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”, tác giả so sánh tiếng suối với tiếng hát của con người. Đây là một nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu mang sức sống và hơi ấm của con người. Câu thơ thứ hai với chữ “lồng” thật ấn tượng, chữ “lồng” đã nhân hoá trăng, cổ thụ, hoa làm cho vần thơ dào dạt chất trữ tình. Chữ “lồng” giúp cho sự vật hiện lên sinh động và â'm áp lạ thường: “Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa”. Câu thơ chỉ bằng ba nét vẽ: tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng cuối cùng là hoa, vần thơ đầy ánh sáng kết hợp với tiểu đối: “trăng lồng cổ thụ >< bóng lồng hoa” tạo nên bức tranh cân xứng, hài hoà với ngôn ngữ trang trọng vừa mang sắc thái cổ điển vừa mang sắc thái hiện đại. Hai câu thơ cuối cùng “Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”, đây chính là “nhãn tự “ của bài thơ vì nó diễn tả sâu sắc tâm tình của người thi sĩ - chiến sĩ. Câu thơ thứ ba mở ra như một cái bản lề vừa khái quát lại bức tranh tuyệt vời của Việt Bắc, vừa mở ra tâm trạng của người thi sĩ, của vị lãnh tụ. Không nhừng thế, câu thơ thứ tư còn lí giải với người đọc về tâm trạng “người chưa ngủ” không chỉ vì xúc động trước cảnh thiên nhiên đẹp mà còn bởi lẽ: “chưa ngủ vì lo nổi nước nhà”. Điệp từ “chưa ngu” được nhắc lại hai lần tạo cho âm điệu bài thơ trở nên nhịp nhàng như dòng cảm xúc tâm tình của Người. Chữ “nỗi” đã nói tới những sự việc ngốn ngang chưa xong xuôi của đất nước đang xâm chiếm hết tâm hồn của Bác. Bài thơ Cảnh khuya là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác Hồ, ở đó đã có sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn thi sĩ lồng vào cốt cách chiến sĩ; màu sắc cố điển hoà hợp với màu sắc hiện đại. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ với cảm hứng thiên nhiên chan hoà, với cảm hứng yêu nước. Do vậy, đọc thơ Người chúng ta càng thêm kính yêu và tự hào về Bác.

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Nguyen Dieu Thao Ly
6 tháng 1 2017 lúc 19:20

Năm 938, với chiến thắng quân Nam Hán trên Bạch Đằng giang, Ngô Vương Quyền đã mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Đại Việt tự chủ.

Cũng từ đó, văn học bằng chữ Hán, sau đó thêm chữ Nôm, cùng phát triển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều tác phẩm xuất sắc phản ánh lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta. Có thể kể đến các áng văn thơ bất hủ như Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bài Cáo bỉnh Ngô của Nguyễn Trãi và một số tác phẩm khác. Đọc các tác phẩm này ta thấy nội dung vừa nói in đậm trên từng dòng, từng trang.

Thật vậy, từ ngàn xưa, nhân dân ta vẫn luôn tự hào mình thuộc nòi giống Tiên Rồng cao quý, là một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, mãnh liệt bộc phát từ trái tim của mỗi người công dân. Chính lòng yêu nước sâu sắc ấy đã khiến Trần Quốc Tuấn sục sôi căm hờn, mất ngủ quên ăn trước cảnh “sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường”, “uốn lưỡi cú diều mà xỉmắng triều đình” “đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Vì vậy, ông đau lòng trước thói ăn chơi của tướng sĩ thuộc hạ mình, nên đem lời lẽ chân tình, thiết tha để khuyên bảo họ dâu là con đường sông vinh, đâu là con đường chết nhục. Vì yêu nước nồng nàn mãnh liệt nên ông tận tụy lo cho vận mệnh của nước nhà, mài sắc lòng căm thù quyết không đội trời chung với bọn chúng, vững lòng chiến đấu và chiến thắng: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức ràng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù...

{Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuân)

Lòng căm tức và đau đớn dâng trào đến độ ông chỉ muôn phanh thây xé xác quân giặc. Đây chính là một biểu hiện lòng yêu nước nồng nàn và mãnh liệt của ông. Hơn một trăm năm sau, tinh thần này cũng đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong áng “thiên cổ hùngvăn Bình Ngô đại cáo” của mình: Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống

Vì sao bậc ái quốc ưu dân như Nguyễn Trãi đã phải thốt lời dứt khoát “há đội trời chung, thề không cùng sống” với bọn giặc nước. Ấy là vì bọn chúng đã gieo rắc biết bao đau thương, tóc tang và thống khổ cho nhân dân ta. Chính bọn chúng đã:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuồng hầm tai vạ

Trước thực tế ấy, nhà văn đã ghi nhận:

...Độc ác thay, trúc Nam Sơn ghi không hết tội Dơ bẩn thay, nước Nam Hải rửa không sạch mùi.

Cũng chính xuất phát từ lòng yêu nước, lòng căm thù giặc mãnh liệt và sâu sắc, mà nhân dân ta thời ấy, dưới ngọn cờ kháng chiến của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã quyết lòng chiến đấu, anh dũng hi sinh không quản ngại gian lao, vất vả, thiếu thốn và đã đi đến chiến thắng hào hùng:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn

Can gió to trút sạch lá khô Tổ kiến hổng, sụt toang đè vỡ Trận Bổ Đằng sấm vang chớp giật Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay...

Chính lòng yêu nước đã mài sắc ý chí, tạo nên sức mạnh giúp nhân dân ta bao lần chiến thắng giặc thù. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn. Sau này nhân dân ta cũng đã phát huy truyền thông đó để chiến thắng một cách vô cùng oanh liệt dôi với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trong hai cuộc kháng chiến anh dũng vừa qua.

Ngoài ra, lòng yêu nước của nhân dân ta còn được thể hiện ở tình yêu quê hương, yêu hòa bình và tự hào về đất nước giàu đẹp của mình. Bài Cảnh mùa. Xuân của Trần Nhân Tông là một bức tranh quê hương đầy sức sống và rực rỡ: Chim hót véo von liễu nở đầy Thềm hoa chiếu ánh bóng mây bay

(Cảnh mùa xuân- Trần Nhân Tông)

Ánh chiều in bóng mây lên thềm. Tiếng chim hót vang trong rừng liễu đầy hoa lá cũng là tiếng ngợi ca quê hương ta thời ấy có một vẻ đẹp làm say lòng du khách nguôi quên cả chuyện nhân sự.

Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân sự Chỉ tựa bao lơn đứng ngẩm trời...

Cả trong thơ Nguyễn Trãi cũng thế, quê hương ta hiện lên đẹp như tranh vẽ: Từ một “bến đò xuân” với mưa phùn rơi sống động của buổi đầu xuân:

Cỏ xanh như khói, bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời...

(Bến đò xuân đầu trại- Nguyễn Trãi) đến một bức tranh quê quen thuộc, đầy thi vị của buổi cuối xuân:

Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã muộn Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan

(Cuối xuân tức sự -Nguyễn Trãi)

Còn nhiều dòng thơ nữa khó tả hết... Tất cả không những biểu hiển lòng yêu nước mà còn là một nét đẹp của tâm hồn nghệ sĩ, tâm hồn của người Việt Nam giàu xúc dộng.

Ngoài lòng yêu nước nồng nàn như bên trên vừa chứng minh, nhân dân ta còn có tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc. Thật vậy, nhân dân ta, từ nghìn xưa, đã luôn hãnh diện mình là một dân tộc “con Rồng cháu Tiên”, một dân tộc có

lòng yêu nước sâu sắc, lòng tự hào lớn lao về nền độc lập của đất nước mình như những dòng “thơ thần” của Lí Thường Kiệt còn mãi âm vang:

Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời.

(Sông núi nước Nam— Lí Thường Kiệt)

Song song với niềm tự hào độc lập dân tộc là niềm tự hào về văn hóa, phong tục của dân tộc ta. Nước ta tuy đất hẹp nhưng từ xưa vốn đã có một nền văn hóa riêng như trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã viết:

Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác...

Để duy trì nền văn hiến ấy, ông chả chúng ta biết đã bao lần phải xả thân chiến đấu, không ngại hi sinh gian khổ để ngày nay cháu con được tự hào về bao chiến công hiển hách của người xưa trong từng trang lịch sử hào hùng của dân tộc:

Cửa Hàm Tử bất sống Toà Đô Sông Bạch Đằng giết tươi 0 Mã

Ai cũng biết Toa Đô và Ô Mã là hai tướng giỏi của “thiên triều” nhà Minh, vậy mà đổi diện với quân dân ta thời ấy, bọn chúng chỉ là những kẻ tầm thường bại trận, người bị “giết tươi”, kẻ bị “bắt sống”. Hào khí ấy là kế thừa và phát huy hào khí một thời của Ngô Vương Quyền, người đã ghi chiến công oanh liệt trên sông Bạch Đằng, đã chôn vùi bao đạo quân, bao chiến thuyền, khí giới của giặc xuống lòng sông, hay hào khí của Hưng Đạo Vương ba lần chiến thắng quân Mông Cổ đem lại cuộc sống thanh bình yên ấm cho muôn dân để nhà thơ đời sau còn hết lời ca ngợi:

Ngạc chặt, kình băm, non lởm chởm Giáo chìm, gươm gãy, bãi dăng dăng Quan hà hiểm trở trời kia dựng Hào kiệt công danh đất ấy từng...

Những áng thơ văn cổ kể trên và bao áng thơ văn cổ chưa kể hết được ở đây đã ghi biết bao bức tranh quê hương tươi đẹp, biết bao chiến công vẻ vang lừng lẫy của dân tộc ta với sợi chỉ đỏ xuyên suốt là “lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta”.

Nhưng đâu chỉ riêng văn học cổ, mà cả các tác phẩm văn học của thời cận đại và hiện đại nữa đều phản ánh rõ nét lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta. Đủ thấy chủ đề đó xưa nay vẫn là nguồn cảm hứng bất tuyệt của người cầm bút.

Bình luận (0)
Trang Phan
Xem chi tiết
Trần Thị Hồng Nhung
2 tháng 1 2017 lúc 16:27

Câu 1:chép lại theo trí nhớ bài thơ ''Bạn đến chơi nhà''

Câu 2 :Nêu giá trị và nghệ thuật của bài thơ ''Bạn đến chơi nhà''

Câu 3:có mấy loại từ hán - việt? đó là những loại nào?

Các từ :thủ môn; thiên thư; ái quốc; tái phạm thuộc loại từ hán -việt nào?

Câu 4:Nêu cảm nghĩ về bài cảnh khuya của Hồ Chí Minh

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Phương Anh
2 tháng 1 2017 lúc 19:25

phát biểu cảm nghĩ về bài thơ carngh khuya

Bình luận (4)