Tình huống: Minh 14 tuổi, mẹ mua cho chiếc xe đạp nhưng thấy các bạn có xe đạp điện; Minh rao bán xe đạp. Minh có quyền bán chiếc xe đạp đó không? Minh có quyền gì với xe đạp. Muốn bán, Minh phải làm gì?
Tình huống: Minh 14 tuổi, mẹ mua cho chiếc xe đạp nhưng thấy các bạn có xe đạp điện; Minh rao bán xe đạp. Minh có quyền bán chiếc xe đạp đó không? Minh có quyền gì với xe đạp. Muốn bán, Minh phải làm gì?
- Minh không có quyền bán chiếc xe đạp vì chiếc xe đạp đó là do bố mẹ Minh mua và Minh còn ở độ tuổi chịu sự quản lý của bố mẹ. Nghĩa là chỉ có bố mẹ Minh mới có quyền định đoạt bán hay không bán chiếc xe đạp đó cho người khác.
- Minh có quyền sở hữu chiếc xe đạp đó, cụ thể là có quyền sử dụng, quyền chiếm hữu chiếc xe.
- Muốn bán chiếc xe đạp đó Minh phải hỏi ý kiến bố mẹ và được sự đồng ý của bố mẹ.
Trong h GDCD khi trao đổi về nội dung "phòng ngừa tai nạn vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại" thầy giáo hỏi : Hiện nay 1 số nơi ở nc ta vẫn có tình trạng buôn bán pháo nổ và sử dụng các chất độc hại trong chế biến thực phẩm, đặc biệt trong thời gian gần đây xảy ra hàng loạt các vụ nổ lớn. Theo em các hiện tượng đó có đáng lo ngại k? Vì sao?
1.em hãy trả lời câu hỏi trên của thầy giáo.
2.Nêu hiểu biết của em về phòng ngừa tai nạn vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại.
1. Có . -Vì khi các chất độc hại như các chất độc hại trong chế biến thực phẩm đó xâm nhập vào thị trường sẽ làm ảnh hưởg tới sức khoẻ cn ng dẫn đến bệnh tật ,làm suy yếu giống nòi,...
- Hơn nữa, các chất cháy nổ có thể làm ảnh hưởg đến tài sản và tính mạng của con ng làm ảnh hưởg tới xã hội,...
2. Để phòng ngừa tai nạn vũ khí và các chất độc hại ta cần :
Khoá gas khi sử dụng xong, không sử dụng vũ khí sắt nhọn , không đánh bắt cá bằg ngư lôi, bom hay súng ,..
Bản Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới nhất mà nước ta đang áp dụng hiện nay là Hiến pháp nào?
Được Quốc Hội thông qua vào thời gian nào và chính thức có hiệu lực khi nào
Hiện nay nước ta áp dụng hiến Pháp năm 2013 dc quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực ngày 1/1/2014
vai trò của Hiến Pháp là gì? nêu vai trò, vị trí của Hiến Pháp. từ năm 1945 đến nay, nhà nước ta đã ban hành bao nhiêu văn bản hiến pháp ? có hiệu lực khi nào? khóa bn? kì thứ mấy?
Vai trò:SGK GDCD8
Ban hành 5 bản hiến pháp : 1946. 1959. 1980. 1992. 2013
Hiến pháp 2013 dc quốc hội khóa XIII kì họp thứ 6 thông qua ngày 28 /11 /2013 và có hiệu lực ngày 1 /1 /2014
từ năm 1945 đến nay có 5 văn bản hiến pháp
chị T là công nhân của công ty X do phải nuôi con 8 tháng tuổi nên chị thường xuyên đi làm muộn vì vậy giám đốc bắt chị thôi việc
A theo em hành động của giám đốc là đúng hay sai
B chị T cần làm gì
Câu này nhiều người đang tranh cải mội người góp ý giúp mk với
a) Hành động của giám đốc có phần đúng có phần sai.
- Đúng vì nếu chị T liên tục đi làm muộn sẽ ảnh hưởng tới công ty và năng suất làm việc của công ty.
- Sai vì hiện chị T đang phải nuôi con nên giám đốc cũng cần có sự ưu tiên cho chị.
b) Chị T nên thay đổi và đi làm đúng giờ vì con 8 tháng tuổi đã có thể cai sữa mẹ và có thể được người khác trông nom.
Sai. Chị T nên sử dụng quyền tố cáo
1) Vinh là nhân viên kỹ thuật của một công ty lắp đặt hàng điện tử, đã ký hợp đồng lao động với công ty có thời hạn một năm. Được một tháng, với lý do Vinh làm việc không tốt, không tôn trọng sếp và vi phạm nội quy nên giám đốc công ty cho thôi việc, chỉ cho Vinh nhận lương đến ngày nghỉ vì vi phạm
a) Em có nhận xét gì về tình huống trên?
b) Theo em , Vinh cần làm gì để bảo vệ quyền lợi cho mình
2) Ngôi nhà số 22 ở phố M thuộc quyền sở hữu của ông A. Ông A cho bà B thuê một tầng để buôn bán. Do làm ăn thua lỗ nên bà B đã gán tầng nhà đó cho ông C là chủ nợ
- Ông A có quyền cho bà B thuê tầng nhà đó không? Vì sao?
- Bà B có quyền gán tầng nhà đó cho ông C không? Vì sao
- Ông A cần gặp ai để đòi lại ngôi nhà đó lại cho mình ?
2)- ông a có quyền cho bà b thuê tầng nhà đó . Vì đó là nhà của ông a , nên ông a có quyền định đoạt về ngôi nhà của mk
- bà b ko có quyền gán ngôi nhà đó cho ông c . vì đây ko phải nhà bà b , nó ko thuộc ề bà b , nên bà b đã vi phạm vào tài sản của người khác
- ông a nên gặp cơ quan chính quyền như công an chẳng hạn
Câu 6: Ngôi nhà số 12 phố H thuộc quyền sở hữu của ông An , ông An cho bà Mai thuê tầng 1 để buôn bán . Do làm ăn thua lỗ , bà Mai đã bán lại căn nhà đó cho ông Hùng là chủ nợ
c)Ông An cần gặp ai để đòi lại căn nhà đó
sự khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo với mê tín dị đoan
Đối với người có đạo, sinh hoạt tôn giáo là công việc hàng ngày của họ. Họ có thể đọc kinh, cầu nguyện trước bàn thờ Phật, bàn thờ Chúa tại nhà, cũng có thể đến chùa, đến nhà thờ hành lễ.
Những người không theo tôn giáo nào, có thể họ không đọc kinh, cầu nguyện, không đến cơ sở thờ tự tôn giáo hành lễ, nhưng đã là người Việt có lẽ ai cũng thiết lập bàn thờ gia tiên trong nhà để thờ ông bà, bố mẹ, cụ kỵ tổ tiên. Đó là các sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng. Mặt khác, khi trong nhà gặp hoạn nạn, thường thường người ta đi xem bói để tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng đó. Đây được coi là biểu hiện của hoạt động mê tín dị đoan. Tuy nhiên, cho đến nay, có lẽ có một bộ phận dân cư không nhỏ vẫn chưa phân biệt được sự giống nhau và khác nhau giữa sinh hoạt tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan. Trong bài này, chúng tôi xin làm rõ sự giống nhau và khác nhau đó, đồng thời tìm ra mối quan hệ giữa tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tôn giáo, tín ngưỡng với mê tín dị đoan, nhằm giúp bạn đọc phân biệt rõ hơn về ba loại hình sinh hoạt tâm linh này.
1. Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng 1.1. Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó. Sự giống nhau thứ hai giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó. 1.2. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó[1]. Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,… Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển. Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít). Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp. 2. Sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan 2.1. Sự giống nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan Giống như sự giống nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng dân gian, tức là đều tin vào những điều mà mắt mình không trông rõ, tai mình không nghe thấy thân hình và giọng nói của đấng thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; hạ là, những tín điều của tín ngững dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan. 2.2.Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan Một là, xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính. Người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền. Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này. Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, từ đường, miếu,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia. Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ Thánh; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, chết đuối, ốm đau, hỏa hoạn,…), còn bình thường, có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì. Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình. 3. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó thể hiện ở các phương diện sau: Trước hết, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,… Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao Ba là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng) dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng một số thủ thuật của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng (chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…) mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị đoan cũng học được ở các pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành nghề trừ tà ma,… Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn. Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của chúng. [1] Căn cứ theo tiêu chí là một tôn giáo phải có đầy đủ 4 yếu tố này, thì theo chúng tôi, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam không phải là một tôn giáo (đạo) như có học giả đã chủ trương mà nó chỉ là một loại tín ngưỡng của người Việt. Cũng tương tự như vậy, tín ngường thờ cụ kỵ tổ tiên ở nước ta cũng chỉ là một loại hình tín ngưỡng chứ không phải là “Đạo Ông bà” như có học giả người Pháp đã xác định vào thời kỳ trước năm 1945.Câu 1. Bạn A là hs chậm tiến của lớp, thường xuyên bỏ tiết , nghỉ k phép,k học bài cũ, nhiều lúc còn đánh nhau với các bạn trong và ngoài trường . Hỏi:
a, A đã vi phạm những chuẩn mực đạo đứa nào?
b, A đã vi phạm những chuẩn mực pháp luật gì?Ai có quyền xử lí việc vi phạm của A? Xác định hậu quả của những hành vi trên.
Năm nay Việt đã 14 tuổi bố mẹ mua cho việc một chiếc xe đạp để đi học. Nhưng vì muốn mua một chiếc xe đạp khác nên Việt đã tự do bán chiếc xe đó.
- Việt có quyền bán chiếc xe đó cho người khác không? Vì sao?
- Việt có quyền gì với chiếc xe đạp đó?
- Muốn bán chiếc xe đạp đó Việt phải làm gì?
_Việt ko có quyền bán chiếc xe đạp đó vì chiếc xe đạp này là do bố mẹ của việt mua cho .Việt ko có quyền định đoạt đối với chiếc xe này
_việt có quyền sử dụng với chiếc xe đạp đó việt phải hỏi ý kiến của bố mẹ.Bố mẹ cho phép rồi mới được bán
_muốn bán chiếc xe