Đề cương ôn tập ngữ văn 6 học kì I

ĐỖ TIẾN SỸ
Xem chi tiết
Nhi uwu
7 tháng 4 2020 lúc 15:50

Bài tham khảo 1:

Bình minh vừa rạng , phương đông ửng hồng .Từ phía xa xa , ông mặt trời mặc bộ xiêm y hoàng bào lộng lẫy từ tư bước lên cao. Trên trời những đám mây màu vàng nhạt lững lờ trôi đi. Những chú gà trống oai phong như những chàng hiệp sĩ dạo lên những khúc kèn hoành tráng : "Ò ó o o",... từ xa vọng lại . Chị gió thướt tha mang những luồng khí mát lạnh đến quê huơng tôi . Ngoài đồng , các bác nông dân đang gặt lúa khung cảnh thật yên bình tuyệt đẹp trong buổi sáng mùa hè trên quê hương tôi. Không khí buổi sáng quê tôi thật tuyệt vời!

=>Cụm danh từ: những chú gà trống, những chàng hiệp sĩ, những khúc kèn, các bác nông dân,..

Bài tham khảo 2:

Dòng sông quê em rất đẹp, thanh bình và êm đềm. Mặt sông uốn lượn như một dải lụa đào vắt ngang qua ngôi làng. Lác đác trên sông là những khóm lục bình lững lờ trôi.Thỉnh thoảng bắt gặp những bông hoa lục bình tim tím theo dòng nước, lặng lẽ lững lờ trôi. Mặt trời đã chiếu những tia nắng gay gắt, mặt sông lấp lánh như được dát muôn ngàn viên pha lê. Ô kìa, những chiếc thuyền đánh cá, chở hàng buôn bán lặng lẽ đậu giữa dòng sông như đang ngẫm nghĩ điều gì đó. Bến cảng đã thưa dần, thấp thoáng đây đó những ngôi nhà cao tầng trong làn sương mờ mờ ảo ảo. Bên kia, nhà cũng ít lại, những vườn cây trái xanh um chạy dài ven bờ sông. Gió lùa qua lá cây xào xạc, tràn xuống mặt nước mát rượi. Đứng trước sông nước mênh mông, em thấy lòng mình nhẹ lân lân làm sao!

=> Cụm danh từ; những bông hoa, những chiếc thuyền, những ngôi nhà cao tầng, những vườn cây,...

Bình luận (0)
ĐỖ TIẾN SỸ
Xem chi tiết
Nhi uwu
7 tháng 4 2020 lúc 15:48

Bài tham khảo 1:

Bình minh vừa rạng , phương đông ửng hồng .Từ phía xa xa , ông mặt trời mặc bộ xiêm y hoàng bào lộng lẫy từ tư bước lên cao. Trên trời những đám mây màu vàng nhạt lững lờ trôi đi. Những chú gà trống oai phong như những chàng hiệp sĩ dạo lên những khúc kèn hoành tráng : "Ò ó o o",... từ xa vọng lại . Chị gió thướt tha mang những luồng khí mát lạnh đến quê huơng tôi . Ngoài đồng , các bác nông dân đang gặt lúa khung cảnh thật yên bình tuyệt đẹp trong buổi sáng mùa hè trên quê hương tôi. Không khí buổi sáng quê tôi thật tuyệt vời!

=>Cụm danh từ: những chú gà trống, những chàng hiệp sĩ, những khúc kèn, các bác nông dân,..

Bài tham khảo 2:

Dòng sông quê em rất đẹp, thanh bình và êm đềm. Mặt sông uốn lượn như một dải lụa đào vắt ngang qua ngôi làng. Lác đác trên sông là những khóm lục bình lững lờ trôi.Thỉnh thoảng bắt gặp những bông hoa lục bình tim tím theo dòng nước, lặng lẽ lững lờ trôi. Mặt trời đã chiếu những tia nắng gay gắt, mặt sông lấp lánh như được dát muôn ngàn viên pha lê. Ô kìa, những chiếc thuyền đánh cá, chở hàng buôn bán lặng lẽ đậu giữa dòng sông như đang ngẫm nghĩ điều gì đó. Bến cảng đã thưa dần, thấp thoáng đây đó những ngôi nhà cao tầng trong làn sương mờ mờ ảo ảo. Bên kia, nhà cũng ít lại, những vườn cây trái xanh um chạy dài ven bờ sông. Gió lùa qua lá cây xào xạc, tràn xuống mặt nước mát rượi. Đứng trước sông nước mênh mông, em thấy lòng mình nhẹ lân lân làm sao!

=> Cụm danh từ; những bông hoa, những chiếc thuyền, những ngôi nhà cao tầng, những vườn cây,...

Bình luận (0)
Sarada
Xem chi tiết
Lê Hoàng Nhân
20 tháng 10 2018 lúc 14:58

Văn hoá ứng xử của học sinh, sinh viên đang là một vấn đề đang được bàn nhiều trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong các diễn đàn và cả trong các công trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, nội dung quan trọng nhất trong văn hoá ứng xử của học sinh, sinh viên là vấn đề ứng xử với thầy cô giáo, đặc biệt là đối với các giảng viên đứng lớp, vẫn chưa được xem xét một cách đầy đủ và cụ thể. Theo chúng tôi, tìm hiểu thực trạng này và đề ra các giải pháp để giáo dục văn hoá ứng xử cho học sinh, sinh viên là một trong những nội dung cấp thiết hiện nay.

Qua việc phân tích các nghĩa của văn hoá ứng xử được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu, chúng ta có thể hiểu: Văn hoá ứng xử là cái đẹp, cái giá trị trong ứng xử, tức là ứng xử có văn hoá. Nó bao gồm: hệ thống thái độ, khuôn mẫu, kỹ năng ứng xử của cá nhân và cộng đồng người trong mối quan hệ với môi trường thiên nhiên, xã hội và bản thân, dựa trên những chuẩn mực xã hội nhằm bảo tồn, phát triển cuộc sống của cá nhân và cộng đồng người hướng đến cái chân, cái thiện, cái mỹ.

Vậy học sinh, sinh viên hiện nay đã ứng xử với thầy cô giáo một cách có văn hoá, phù hợp với chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, với truyền thống “tôn sư trọng đạo” hay chưa? Từ thực tế ở trường Đại học Hà Tĩnh và một số trường Đại học, cao đẳng khác, chúng tôi thấy một bộ phận học sinh, sinh viên chưa thể hiện điều đó.

Có rất nhiều sinh viên hiện nay quan niệm quá trình học tập, rèn luyện tại truờng đại học chỉ là học để có nghề nghiệp, học để lấy tấm bằng; giảng viên, cán bộ nhà trường chỉ là người làm công tác đào tạo cho mình. Vì vậy họ đã đánh mất những nét đẹp, xa rời các chuẩn trong cách ứng xử với thầy cô giáo vốn đã được giáo dục từ thời phổ thông. Đó là thái độ không tôn trọng giảng viên trong giờ học mà những biểu hiện cụ thể là cãi lại lời giảng viên khi bản thân có lỗi, bị phê bình; là không đứng dậy chào giảng viên khi họ vào lớp; là trả lời câu hỏi của giảng viên một cách cộc lốc, thờ ơ cho qua; là không đứng dậy trả lời câu hỏi xây dựng bài khi giảng viên yêu cầu; là vào ra lớp học không xin phép…Cả những hành vi nói chuyện riêng, làm việc riêng, sử dụng điện thoại, để chuông điện thoại reo trong giờ học của một số sinh viên và tình trạng các lớp không chuẩn bị khăn trải bàn, khăn lau bảng cho giảng viên, không làm vệ sinh trong lớp học trong rất nhiều tiết giảng của giảng viên cũng thể hiện sự ứng xử chưa văn hoá. Ngoài lớp thì trên giảng đường một số sinh viên gặp không chào thầy cô, không nhưòng đường cho thầy cô đi qua; một số sinh viên còn dùng những từ ngữ không tôn trọng khi bàn luận với nhau về tính cách của thầy cô. Điều đáng nói là thực trạng này thể hiện ở cả một số sinh viên sư phạm - những sinh viên không chỉ được giáo dục về kiến thức, kỹ năng mà về sự mô phạm để trở thành giáo viên trong tương lai.

Từ thực trạng trên, theo chúng tôi, để giáo dục văn hoá ứng xử cho học sinh, sinh viên - giáo dục văn hoá học đường, trước hết phải giáo dục, uốn nắn những lệch lạc về chuẩn mực trong thái độ, hành vi ứng xử của học sinh, sinh viên đối với thầy cô giáo. Đối với trường Đại học Hà Tĩnh, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp sau:

Về phía nhà trường:

Trước hết, phải nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc giáo dục văn hoá ứng xử nói chung, văn hoá ứng xử với thầy cô giáo nói riêng cho học sinh, sinh viên. Phải thực sự xem đây là một trong những vấn đề cơ bản trong thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học.

Trước đây có quan điểm cho rằng sinh viên là đối tượng đã có nhận thức, đã phát triển ổn định về mặt tư tưởng, tâm lý nên nhiều trường đã không chú trọng đến việc giáo dục nội dung này. Tuy nhiên chúng ta biết giới trẻ nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng hiện nay bị tác động bởi nhiều yếu tố tiêu cực từ ngoài xã hội do mặt trái của cơ chế thị trường, sự “xâm lăng” của văn hoá không lành mạnh, lai căng, đồi truỵ, không phù hợp với văn hoá truyền thống… nên đã đánh mất nhiều chuẩn mực ứng xử, trong đó có ứng xử với thầy cô giáo.

Thứ hai, Đảng uỷ, Ban giám hiệu nhà trường, các khoa, các phòng ban chức năng cũng như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên phải đem vấn đề giáo dục văn hoá ứng xử cho học sinh, sinh viên vào một trong những nội dung giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên và có kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể.

Thứ ba, các Khoa phải tăng cường quản lý chặt chẽ hơn, sâu sát hơn đối với học sinh, sinh viên khoa mình. Hàng tuần, hàng tháng phải có sự tổng kết, đánh giá văn hoá ứng xử của học sinh, sinh viên trong khoa và đưa vấn đề này vào trong Báo cáo đánh giá hàng tháng để thông báo trước các cuộc họp chi bộ, họp khoa và lễ chào cờ, đồng thời có biện pháp xử lý, uốn nắn những lệch lạc về chuẩn mực ứng xử với cán bộ, giảng viên ở sinh viên.

Thứ tư, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cấp trường và cấp liên chi đoàn, chi đoàn phải đưa vấn đề giáo dục văn hoá ứng xử vào trong các nội dung hoạt động và sinh hoạt hàng tháng. Tổ chức Đoàn, Hội, phải tổ chức những buổi nói chuyện, những diễn đàn, câu lạc bộ về vấn đề này hay lồng ghép vào các cuộc thi, các hội diễn văn hoá văn nghệ hay sinh hoạt truyền thống. Trong những năm qua, vấn đề giáo dục văn hoá ứng xử cho sinh viên, trong đó có văn hoá ứng xử đối với thầy cô giáo đã được một số liên chi đoàn như LCĐ Khoa Lý luận chính trị, LCĐ khoa Ngoại ngữ đưa vào nội dung sinh hoạt trong các ngày chủ điểm, nhất là ngày 20 tháng 11 với chủ đề “Tri ân Thầy Cô”. Tuy nhiên trong toàn trường, các Liên chi đoàn chưa tổ chức thường xuyên và chưa có hiệu quả thiết thực.

Thứ năm, các thầy cô giáo, trước hết là các giảng viên đứng lớp phải mẫu mực trong đạo đức, lối sống, là một tấm gương sáng về văn hoá ứng xử để học sinh, sinh viên noi theo. Đồng thời cán bộ, giáo viên nhà trường phải phê phán và có biện pháp xử lý những học sinh, sinh viên chưa tôn trọng mình và đồng nghiệp. Cách phê phán, xử lý phải thật sự nghiêm túc nhưng không quá gay gắt và nặng nề mà phải thật khéo léo, nhân văn để học sinh, sinh viên nhận ra được cái sai, cái chưa đẹp, cái chưa chuẩn mực trong thái độ, lời nói hành vi của mình đối với thầy cô giáo, từ đó có sự tự điều chỉnh và có hướng khắc phục và họ sẽ tôn trọng giáo viên hơn.

Thứ sáu, bản thân mỗi học sinh, sinh viên phải nâng cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức và lối sống, xây dựng văn hoá ứng xử theo những chuẩn mực tốt đẹp cho mình. Trước hết trong quan hệ giao tiếp, làm việc (học tập, nghiên cứu) với thầy cô giáo phải thể hiện được thái độ, lời nói, hành động lễ phép, tôn trọng, trân trọng thầy cô, đồng thời cũng phải biết góp ý, phê bình và chỉ ra những thái độ, lời nói, hành vi chưa đẹp, chưa “tôn sư trọng đạo” ở một số sinh viên khác, nhất là những bạn bè trong lớp mình.

Các bạn học sinh, sinh viên phải nhận thức được rằng văn hoá ứng xử với thầy cô giáo qua những tiêu chí đã đề cập ở trên không chỉ thể hiện nét đẹp của văn hoá truyền thống dân tộc, không chỉ là yêu cầu về đạo đức, lối sống đối với học sinh, sinh viên mà còn thể hiện giá trị bản thân - phông văn hoá của mình. Rất nhiều bạn sinh viên đã đi học các lớp kỹ năng mềm trong đó quan trọng là kỹ năng giao tiếp - một trong những yếu tố giúp con người thành công và hạnh phúc trong cuộc sống, sự nghiệp khi vào đời - nhưng điều đó sẽ vô nghĩa nếu bạn nào vẫn còn ứng xử chưa đúng mực với thầy cô giáo đang âm thầm thực hiện sự nghiệp “trồng người” trang bị kiến thức, kỹ năng cho mình!

Ngày nhà giáo Việt Nam 20-11 sắp tới - những nhà giáo thật hạnh phúc khi nhận được những lời chúc mừng, những bó hoa tươi thắm và cả những món quà có ý nghĩa từ phía học sinh, sinh viên. Nhưng tất cả giáo viên, giảng viên sẽ thật sự hạnh phúc và tự hào nếu hàng ngày đều nhận những lời nói, thái độ, hành vi ứng xử thể hiện sự tôn trọng, kính mến, biết ơn của học sinh, sinh viên đối với mình. Đó là món quà có ý nghĩa nhất và có giá trị nhất.

Bình luận (1)
Angel
Xem chi tiết
Trần Diệu Linh
17 tháng 10 2018 lúc 20:59

1. BPNT: So sánh

2.Qua cách so sánh trên, hình ảnh trăng hiện lên thật sinh động. Ở mỗi cách nhìn, trăng lại mang một vẻ đẹp khác nhau: với mẹ, trăng là lưỡi liềm(vẻ đẹp của sự lao động); với ông trăng là con thuyền (vẻ đẹp của sự thảnh thơi); với bà trăng là hạt cau phơi (gần gũi và thân thiết); với cháu, trăng là quả chuối vàng (ngộ nghĩnh, cómàu sắc tươi tắn); với bố, trăng như cánh võng chập chờn (có sự hoạt động). Mỗi người khi nhìn tảưng đều liên tưởng đến hình ảnh một sự vật gần gũi với mình.

5.

qua bài thơ của nhà thơ Hồng Thiện thì cảm nhận của em về bài thơ vô cùng sâu sắc .Nó nói lên ý kiến riêng của mọi người .Mẹ bảo trăng như lưỡi liềm là vì mẹ đã quen với công việc đồng áng, nó đã quá quen thuộc với mẹ nên chỉ cần nhìn qua là mẹ đã hình dung nó như một lưỡi liềm.Ông rằng như con thuyền cong mũi bởi vì ông đã từng đc đi thuyền hoặc ông đã từng có ấn tượng gì đó với con thuyền.Bà nhìn hạt cau phơi ,bà đã ăn rất nhiều trầu mà trù thì ko thể thiếu cậu nên bà dã hình dung mặt trăng như miếng câu bị cắt rồi đem phơi. Cháu cười quả chuối vàng tươi ngoài trời ,cháu là trẻ con nên khi thấy mặt trăng vừa cong cong lại còn màu vàng nhìn y như quả chuối đã chín.Bố nhớ khi vượt Trương Sơn trăng như cánh chợp chờn trong mây ,bố đã từng đi ra chiến trương nen khi leo núi cao thì ánh trăng càng dễ bị che phủ bởi mây nên trông như cánh cò chợp chờn trong mây. Cảm nhận mỗi người rất khác nhau, mỗi người một suy nghĩ hình tượng mặt trăng quá nhiều hình dáng làm cho bài thơ sinh động hơn, hay hơn.

Bình luận (3)
Trần Thị Khánh Vy
Xem chi tiết
Thảo Phương
17 tháng 3 2019 lúc 18:31

1)Bài ca dao mở ra không gian buổi chiều. Đó là thời điểm cuối ngày thường gợi nhiều suy nghĩ và thường gợi những nổi buồn vương vất. Dân gian dùng từ láy Chiều chiều cho ta biết rằng không phải một buổi chiều mà chiều nào cũng vậy, khi thời gian bước vào cái giây khắc của ngày tàn, người phụ nữ lại “ra đứng ngõ sau” để “trông về quê mẹ” mà “ruột đau chín chiều”. Bước vào chiều tà không gian đã nhập nhoạng tối, người phụ nữ lại chọn địa điểm “ngõ sau” rất kín đáo để tự mình đối diện với lòng mình.“Ngõ sau” chẳng những gợi đến thân phận hèn mọn của phận dâu tôi mà kết hợp với thời gian chiều tôi nó còn tạo ra một góc riêng cho người phụ nữ tội nghiệp ấy: một cái góc vừa tối vừa hẹp. Trong khung cảnh ảm đạm, hình ảnh người phụ nữ cô đơn thui thủi một mình càng nhỏ bé, đáng thương hơn nữa. Nàng lặng lẽ “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Nhắc đến “mẹ” là nhắc đến điểm tựa tâm hồn của người con. Nhắc đến “quê mẹ” là nhắc đến những yêu thương, những đồng cảm, những sẻ chia làm ấm lòng người. Đặc biệt, từ “trông” không chỉ có nghĩa là nhìn mà còn có ý nghĩa là trông ngóng. Người phụ nữ “trông về quê mẹ” còn là đang khao khát những tình cảm ấm nồng, còn đang mong ngóng ngày trở về quê mẹ với những người thân yêu nhất của mình.Trong hoàn cảnh bèo dạt mày trôi nơi đất khách quê người, nàng trông về nơi ấy mà ruột đau chín chiều. Chín chiều là "chín bề", là "nhiều bề". Nỗi đau “chín chiều” là nỗi đau quận thắt không nói nên lời, nó âm ỉ, nó dai dẳng làm mòn làm héo con người. Cách sử dụng từ ngữ có kết cấu vòng tròn đối xứng chiều chiều - chín chiều đã góp phần gợi tả bi kịch đời người phụ nữ: họ chẳng bao giờ thoát khỏi cái vòng trong khổ đau định mệnh. Tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ ấy vì thế mà càng nặng nề, đau xót hơn.“Chiều chiều ra đứng ngõ sau...” là bài ca dao có sức lay động nhưng miền thương miền nhớ dù là sâu kín nhất của con người. Và vì thế, bài ca dao mang trong mình một tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Bình luận (0)
Trần Thị Khánh Vy
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Yến
Xem chi tiết
Nguyễn Phương Mai
21 tháng 10 2018 lúc 10:12

Mik nghĩ bạn nên viết về ngày đầu tiên đi học ,viết dễ mà còn cảm động đó .Từ bài hát ''Ngày đầu tiên đi học ''sẽ viết dễ hơn.

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Yến
Xem chi tiết
Trần Diệu Linh
14 tháng 10 2018 lúc 13:11

Câu 1 (trang 96 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Trong truyện ông lão ra biển năm lần gặp cá vàng:

+ Lần 1: Thế là ông lão đi ra biển

+ Lần 2: Thế là ông lão lại đi ra biển

+ Lần 3: Ông lão lại lóc cóc ra biển

+ Lần 4: Ông lão đành lủi thủi ra biển.

+ Lần 5: Ông lại đi ra biển

- Việc lặp lại hành động này là chủ ý của truyện cổ tích, nhằm:

+ Gợi ra các tình huống cuốn hút người nghe, người đọc.

+ Mỗi lần lại xuất hiện chi tiết mới: lòng tham của mụ vợ tăng lên, cảnh biển và tâm trạng của ông lão thay đổi.

Câu 2 (Trang 96 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Sự thay đổi cảnh biển trong mỗi lần ông lão ra cầu xin cá vàng:

+ Lần 1: biển gợn sóng yên ả

+ Lần 2: biển xanh nổi sóng

+ Lần 3: Biển xanh nổi sóng dữ dội

+ Lần 4: Biển nổi sóng mù mịt

+ Lần 5: Một cơn dông tố kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm

⇒ Việc liệt kê tăng tiến, cho thấy rõ phản ứng của biển tương ứng với những đòi hỏi ngày càng vô lý, quá quắt của mụ vợ ông lão đánh cá.

- Biểu hiện của biển chính là thái độ của nhân dân trước lòng tham của con người bội bạc.

Câu 3 (trang 96 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Truyện phản ánh lòng tham và sự bội bạc của mụ vợ tăng dần:

+ Lần 1: đòi chiếc máng lợn ,ới

+ Lần 2: đòi nhà rộng

+ Lần 3: đòi làm nhất phẩm phu nhân

+ Lần 4: mụ vợ đòi làm nhất phẩm phu nhân

+ Lần 5: Mụ vợ muốn làm Long Vương

- Sự phát triển của cốt truyện dựa trên việc lòng tham, đòi hỏi của mụ vợ ngày càng không giới hạn. Mụ vợ không có công gì với cá vàng nhưng lại đưa ra những đòi hỏi vô lý.

- Sự bội bạc của mụ đối với chồng:

+ Chửi chồng “đồ ngốc”, “đồ ngu”, “ngốc sao ngốc thế”

+ Đỉnh điểm khi mụ tát vào mặt ông lão “Mày cãi à? Mày dám cãi một bà nhất phẩm phu nhân à?

- Sự bộ bạc đi tới cùng khi người chồng- cũng là ân nhân- mụ coi như chướng ngại vật, mụ gạt ra để cá vàng trực tiếp hầu hạ mụ.

Câu 4 (trang 96 sgk ngữ văn 6 tập 1)

- Câu chuyện được kết thúc bằng hình ảnh “ trước mắt ông lão lại thấy túp lều nát ngày xưa, và trên bậc cửa, mụ vợ đang ngồi trước cái máng lợn sứt mẻ”

- Hình ảnh này có ý nghĩa:

+ Với ông lão: cuộc sống trở về bình yên giản dị dù thiếu thốn.

+ Với mụ vợ: từng sống nghèo khổ, cũng từng được giàu sang nay lại nghèo khổ, đây là hình phạt cho lòng tham và sự bội bạc.

Câu 5 (trang 96 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Cá vàng trừng trị mụ vợ vì cả hai tội: tham lam và bội bạc

+ Lòng tham khiến mụ mù quáng, mất lương tri. Sự bội bạc có ý nghĩa quyết định lòng tham trở nên vô hạn độ dẫn đến việc bị trừng trị thích đáng của cá vàng đối với mụ

- Hình tượng cá vàng trong truyện thể hiện chủ đề của truyện:

+ Cá vàng thể hiện sự biết ơn đối với tấm lòng nhân hậu.

+ Cá vàng thể hiện ước mơ công lí về sự trừng phạt đối với kẻ vong ân bội nghĩa, ích kỷ, tham lam vô độ.

Luyện tập

Bài 1 ( trang 97 sgk ngữ văn 6 tập 1) Có thể đặt tên nhan đề là Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá vàng. Không thể đặt như vậy vì:

- Về mặt hình thức: nhan đề quá dài

- Mụ vợ ông lão đánh cá là nhân vật chính, triển khai theo mạch mức độ tăng tiến theo những đòi hỏi vô lý của mụ nhưng sự đối thoại trực tiếp trong truyện là ông lão- con cá.

- Câu chuyện tô đậm lòng tốt, tính thiện của con người.

Bài 2 (Trang 97 sgk ngữ văn 6 tập 1)Kể diễn cảm truyện cổ tích

Các bài soạn văn lớp 6 hay khác:

Ông lão đánh cá và con cá vàng Thứ tự kể trong văn tự sự Viết bài tập làm văn số 2 - Văn kể chuyện
Bình luận (0)
Nguyễn Thị Yến
Xem chi tiết
Diệu Huyền
16 tháng 9 2019 lúc 21:36

Câu 1 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Mã Lương thuộc kiểu nhân vật phổ biến trong truyện cổ tích:

- Nhân vật có tài lạ, luôn dùng tài năng để giúp đỡ người nghèo, chống lại kẻ độc ác, tham lam

- Một số nhân vật tương tự như Thạch Sanh, Sọ Dừa…

Câu 2 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Mã Lương có tài vẽ giỏi là vì:

- Say mê, yêu thích việc vẽ, và có năng khiếu sẵn có của bản thân

- Luôn luôn tập vẽ ở mọi nơi, mọi lúc

- Cây bút thần chính là phần thưởng cho những nỗ lực và sự say mê học tập của Mã Lương

- Nhờ có cây bút thần Mã Lương việc vẽ của em trở nên hữu ích.

- Chỉ có Mã Lương mới sử dụng được cây bút như ý em mong muốn

→ Mối quan hệ giữa tài năng, đức độ và sự thần kì

Câu 3 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Mã Lương vẽ cho người nghèo:

- Vẽ cho người nghèo: những vật dụng cần thiết, là công cụ lao động chứ không phải là vàng bạc, đồ ăn

- Với kẻ tham lam: kiên quyết không vẽ, hoặc vẽ sai lệch so với yêu cầu

+ Mã Lương vẽ các phương tiện trốn thoát khỏi nhà địa chủ và trừng phạt hắn

+ Em giả vờ nghe theo lời của nhà vua rồi vẽ bão tố nhấn chìm tên vua độc ác

→ Mã Lương vẽ cho người nghèo, em cự tuyệt vẽ cho những kẻ tham lam, độc ác. Mã Lương cũng thực hiện sứ mệnh của mình khi vẽ cung tên, báo tố nhấn chìm kẻ độc ác như tên địa chủ và vua.

Câu 4 (Trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Những chi tiết lý thú độc đáo trong truyện:

- Khi bị địa chủ nhốt trong chuồng ngựa, em vẽ lò sưởi và bánh nướng, sau đó vẽ thang chạy trốn

- Mã Lương đánh rơi giọt mực vào bức tranh con cò không mắt, cò bỗng cất cánh bay.

- Mã Lương vẽ con cóc ghẻ và con gà trụi lông trước sự tham lam của nhà vua.

Câu 5 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Ý nghĩa truyện cây bút thần:

- Truyện cây bút thần thể hiện ước mơ của nhân dân có được sức mạnh diệu kì để giúp đỡ người lao động bình thường và trừng phạt những kẻ tham lam, độc ác

- Truyện cũng khẳng định tài năng chỉ có thể phát huy được tác dụng khi phục vụ nhân dân, thực hiện những mục đích chính nghĩa

- Khẳng định chắc chắn nghệ thuật chân chính là sự say mê, quyết tâm theo đuổi ước mơ của con người. Nghệ thuật chân chính cứu rỗi và thể hiện niềm tin vào khả năng kì diệu của con người.

Luyện tập

Bài 1 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Kể diễn cảm truyện

Bài 2 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Truyện cổ tích là loại truyện kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc:

+ Nhân vật bất hạnh

+ Nhân vật dũng sĩ, nhân vật có tài năng kì lạ

+ Nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch

+ Nhân vật là động vật có tính cách như người

- Truyện cổ tích có yếu tố hoang đường, thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng của cái thiện trước cái ác.

Bình luận (0)
momochi
17 tháng 9 2019 lúc 8:19

CÂY BÚT THẦN

Tóm tắt

Mã Lương là một em bé thông minh,mồ côi nghèo khổ say mê học vẽ, vẽ giỏi,ao ước có một cây bút vẽ. Được thần thưởng cho cây bút thần. Có bút thần trong tay em vẽ các sự vật trở thành vật thật. Em vẽ cho người nghèo công cụ lao động. Việc đến tai tên địa chủ, em bị hắn bắt vẽ theo ý hắn. Mã Lương kiên quyết không vẽ, trừng trị hắn rồi bỏ đi vùng khác. Em vẽ tranh để kiếm sống , sơ ý để lộ tài năng. Vua đã bắt em về vẽ theo ý muốn . Mã Lương chống lại nên bị bắt giam vào ngục. Vua cướp bút thần để vẽ nhưng không thành. Mã Lương được thả, em vờ đồng ý, rồi vẽ biển,vẽ sóng to gió lớn trừng trị tên vua tham lam, độc ác. Mã Lương trở về với nhân dân đem tài năng vẽ cho người nghèo khổ.

Câu 1: Mã Lương thuộc kiểu nhân vật có tài lạ, luôn dùng tài năng để giúp đỡ mọi người, chống lại kẻ tham lam, độc ác... rất phổ biến trong truyện cổ tích. Trong truyện cổ tích Việt Nam có một số nhân vật tương tự Mã Lương như Thạch Sanh, Sọ Dừa...

Câu 2: Những yếu tố đã giúp cho Mã Lương vẽ giỏi:

- Em dốc lòng, hằng ngày chăm chỉ luyện tập, không bỏ phí một ngày, Mã Lương có năng khiếu và đam mê hội họa.

- Những bức tranh của em vẽ là do kiến thức thực tế hằng ngày mà em tiếp xúc.

- Được thần ban cho cây bút để thổi linh hồn cho vật vẽ.

- Tài năng kỳ lạ của Mã Lương là sự kết hợp của lòng đam mê, khổ công tập luyện; là sự quan sát và tiếp xúc thực tế cuộc sống quanh mình. Chỉ Mã Lương mới có thể sử dụng cây bút thần, cho thấy em là có người tài năng, đức độ, xứng đáng sở hữu cây bút thần.

Câu 3: Với những người nghèo, Mã Lương không vẽ những của cải sẵn có để hưởng thụ. Em vẽ cho họ cái cày, cái cuốc, cái thùng - những vật dụng sinh hoạt và phương tiện lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Việc làm của Mã Lương rất có ý nghĩa, e giúp làm nhẹ bớt gánh nặng trong cuộc sống của người nghèo, nhưng vẫn đề cao sự quan trọng của việc lao động.

Với những kẻ tham lam, độc ác, hoặc là Mã Lương kiên quyết cự tuyệt (như đối với tên địa chủ) hoặc là em chế giễu (vẽ con cóc, con gà trụi lông cho vua). Cuối cùng em dùng cây bút thần để kết liễu bọn chúng.

Mã Lương được các vị thần linh tặng cây bút thần cũng có nghĩa là được trao sứ mệnh giúp đỡ dân nghèo, trừ diệt những kẻ tàn ác, tham lam.

Câu 4: Trong truyện có nhiều chi tiết lí thú và gợi cảm:

- Mã Lương vẽ chim, chim tung cánh bay và cất tiếng hót. Mã Lương vẽ cá, cá bơi lội tung tăng.

- Mã Lương dùng cây bút thần vẽ bánh để ăn, vẽ lò để sưởi.

- Vua bắt Mã Lương vẽ rồng, em vẽ một con cóc ghẻ, bắt vẽ phượng em lại vẽ một con gà trụi lông.

- Mã Lương giả vờ theo ý nhà vua, em vẽ biển, vẽ cá, vẽ cả thuyền cho vua đi xem cá, cuối cùng em vẽ cuồng phong bão tố nhấn chìm tên vua tham lam. Sự trừng phạt của Mã Lương diễn ra trong một thời gian dài khiến ta rất hả hê. Đây có thể nói là một trong những chi tiết đắt giá của truyện. Cái ác luôn luôn bị tiêu diệt.

Câu 5: Truyện "CÂY BÚT THẦN"Cây bút thần thể hiện ước mơ của nhân dân có được sức mạnh và khả năng kì diệu để giúp đỡ những người dân nghèo lao động hiệu quả hơn, đồng thời trừng phạt những kẻ tham lam, độc ác. Truyện nhằm khẳng định nghệ thuật chân chính phải được nuôi dưỡng từ thực tế, gắn liền với tài năng, đức độ, tinh thần say mê sáng tạo và chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho những mục đích chính đáng của con người. Truyện còn thể hiện mơ ước và niềm tin vào những khả năng kì diệu của con người.

DANH TỪ

I. Đặc điểm của danh từ

Câu 1: Danh từ trong cụm từ in đậm là: Con trâu.

Câu 2: Trong cụm danh từ đã nêu, đứng trước danh từ trung tâm là từ "ba"(một số từ, có tác dụng chỉ số lượng), đứng sau danh từ trung tâm là từ "ấy"(phụ từ chỉ định, có tác dụng giúp xác định rõ sự vật, hiện tượng được gọi tên).

Câu 3: Các danh từ khác trong câu đã dẫn:

Danh từ chỉ người như: vua.

Danh từ chỉ vật như: làng, thúng, con, gạo nếp, trâu.

Câu 4: Danh từ là những từ thường dùng để chỉ người, chỉ vật, hiện tượng, khái niệm,… Ở đây, danh từ là để gọi tên hoặc nêu lên tính chất về sự vật và sự việc đó

Câu 5: Đặt câu với các danh từ vừa tìm được.

Làng em có mái đình cổ kính.

Mẹ phải bán đi ba thúng thóc mới đủ tiền mua sách vở cho em.

Con cóc là cậu ông trời.

Gạo nếp dùng để gói bánh chưng.

Trên đồng ruộng, con trâu đang đi cày.

II. Danh từ chỉ đơn vị và danh từ chỉ sự vật

Câu 1: Nghĩa của các danh từ in đậm là chỉ đơn vị, nên tên đơn vị dùng để tính đếm, đo lường sự vật.

Câu 2:

Thay ba con trâu bằng ba chú trâu, một viên quan bằng một ông quanthì ý nghĩa về số lượng không thay đổi.

Thay ba thúng gạo bằng ba bơ gạo, sáu tạ thóc bằng sáu yến thóc thì ý nghĩa về số lượng thay đổi.

Các danh từ kiểu con, viên, chú, ông - không làm thay đổi ý nghĩa về tính đếm, đo lường của cụm danh từ - được gọi là danh từ chỉ đơn vị tự nhiên. Các danh từ kiểu thúng, bơ, tạ, yến - có làm thay đổi ý nghĩa về tính đếm, đo lường - được gọi là danh từ chỉ đơn vị quy ước.

Câu 3:

Câu (1) đúng, câu (2) sai.

Câu (2) sai, vì: "tạ" là đơn vị cân chính xác nên không thể dùng với ý nghĩa đánh giá (rất nặng) được. Đã là tạ thì dĩ nhiên là nặng. Còn"thúng" là từ chỉ đơn vị tính đếm ước chừng thì có thể dùng với ý nghĩa đánh giá (đầy) được.

III. Luyện tập

Câu 1:

Một số danh từ chỉ sự vật mà em biết: xe máy, sách, bút, bàn học,...

Đặt câu:

Xe máy là phương tiện giao thông phổ biến nhất tại Việt Nam

Sách là người bạn của con người.

Mẹ mua cho em một cây bút mới.

Bàn học của em luôn luôn ngăn nắp.

Câu 2:

Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên chuyên đứng trước danh từ chỉ người: viên, ngài, cu, bé,... ( Bé An đang chơi với bà ngoại ở trong nhà.)

Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên chuyên đứng trước danh từ chỉ đồ vật:chiếc, quyển, quả,... ( Chiếc thuyền chao đảo vì sóng lớn.)

Câu 3:

Danh từ chỉ đơn vị quy ước chính xác: ki-lô-mét, yến, lạng,...

Danh từ chỉ đơn vị quy ước ước chừng: Bầy, nhúm, khoảnh, rổ, bó, ...

- Đặt câu:

Hà Nội cách Nam Định khoảng 90 ki-lô-mét.

Từng bó lúa đã được xếp cẩn thận để chuyển về nhà.

Câu 5:

Các danh từ chỉ đơn vị: em, que, con, bức, các, ...

Các danh từ chỉ sự vật: cha mẹ, bút, núi, củi, đất, cỏ, sông, hình vẽ, ...

Bình luận (0)
Vũ Thị Chi
14 tháng 10 2018 lúc 12:27

... lên google tra cho nhanh b ơi -,- nếu google không có hoặc không hiểu gì thì mới hỏi ở đây

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Yến
Xem chi tiết