CÁC BÀI VĂN MẪU - Văn lớp 9

Mắn May
Xem chi tiết
Hà Minh Hùng
Xem chi tiết
Vũ Hạ Linh
6 tháng 7 2017 lúc 15:31

Do mình không đồng tình với đề bài nên sẽ không làm -.- ai vào làm đi để thuyết phục t với :vv

Bình luận (0)
anh trần
4 tháng 8 2017 lúc 8:51

có lẽ đề bài có gì sai sót chứ theo cách mà mình hiểu thì dối với chúng ta học để hiểu, để có kiến thức cho mình đó mới là điều qua trọng với việc học. thành tích học tập chỉ phản ánh được một mặt chỉ là cái vỏ bên ngoài thôi.

Bình luận (0)
Hà Minh Hùng
Xem chi tiết
Linh Phương
5 tháng 7 2017 lúc 12:56

- Đa phần thì học sinh cho rằng " thành tích học tập " là mục đích cao nhất. Vì thành tích có thể sau này thi vào các trường chuyên, có thể lấy thành tick làm nền tảng để thi.

- Còn riêng ý kiến cá nhân của mình thì " thành tích học tập" không phải là mục đích cao nhất. Thành tích học tập có tốt mà ý thức tồi thì cũng không thể làm gì được. Ngoài ra , thành tích nó chỉ là cái bỏ bọc bên ngoài của mỗi người học sinh.

Bình luận (0)
NGUYEN THI DIEP
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
25 tháng 5 2017 lúc 0:37

 

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".

Bài thơ "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương đã cho ta thấy được cảm xúc dạt dào của tác giả trong phương diện của một trong những người con đầu tiên từ miền Nam xa xôi về Bắc viếng thăm lăng Bác, năm 1976. Viễn Phương đã vô cùng xúc động khi gặp hình ảnh hàng tre bởi cả cuộc đời Bác đã hiến dâng cho dân tộc. Mà hình ảnh những tre đã trở thành biểu tượng cho dân tộc Việt Nam mình bất khuất, kiên trung. “Hàng tre xanh” và đó là sắc “xanh Việt Nam” đầy kiêu hãnh. Trong câu thơ tiếp, nhà thơ đả vận dụng có hiệu quả thành ngữ “bão táp mưa sa” để chỉ những giông tố của thời đại mà đất nước ta từng phải hứng chịu. Nhưng qua bao nhiêu chông gai, thử thách tre vẫn “đứng thẳng hàng” như non sông này vẫn ngẩng cao đầu tiến bước. Qua bao nhiêu gian nan, khó khăn, qua bao năm bị kìm hãm bởi chế độ thực dân phong kiến, đất nước dường như suy tàn. Song, nhờ một phần công lao rất lớn của Bác mà Việt Nam thoát khỏi chế độ thực dân phong kiến xấu xa. "Ôi" - từ ngữ mang sắc thái cảm thán rất rõ, sự biết ơn của những người Việt Nam đi trước vì sức xanh mạnh mẽ. Khổ thơ thật ngắn nhưng cũng đủ để chúng ta hiểu được tấm lòng, suy nghĩ của Viễn Phương.

_________Nguồn:Tự làm____________

 


 

Bình luận (4)
Nguyễn Ngọc Mai
Xem chi tiết
Linh Phương
15 tháng 6 2017 lúc 13:09

Mở bài:_ Em hiểu thế nào là những điều lớn? Thế nào là những điều nhỏ?

Tại sao người ta thường nói, muốn đạt được mục đích phải đi từ cái nhỏ nhất? ==> ý nghĩa câu nói.

Thân bài:

a) Giải thích chung:

+ Đôi khi những điều nhỏ nhặt nhất lại làm nên thành công lớn?

+ Thành công hay những điều lớn lao nó được hình thành từ đâu? Và phải nhờ vào tính kiên trì của mỗi người mới có thể thành công....

b) Lí lẽ ( dẫn chứng )

- Bạn có bao giờ nghĩ 1 con người thành công nhất định phải vấp ngã 1 lần để nếm thử gia vị thất bại 1 lần?

- Bạn cho rằng mọi thứ chỉ tốt đẹp khi bạn mới bắt đầu làm những công việc to lớn trước, nhỏ bé thì để lại ?

- Mỗi 1 người dù muốn bước qua các cửa ải thì bắt buộc phải làm từ dễ đến khó? Không thể vừa bắt đầu đã muốn tới đỉnh vì điều này không bao giờ xảy ra....

- Sẽ chẳng có gì là khó nếu bạn không bắt đầu từ dễ như muốn đi được thì phải ngã đau nhiều mới đi được vững...

- Đôi khi, những câu hỏi rất dài nhưng bạn nghĩ nó khó bởi câu hỏi quá dài nhưng thực tế nó không vậy, một câu hỏi khó nhưng đáp án thì ngước lại rất ngắn thôi nó đòi hỏi ở trí tuệ của bạn....

==> Rút ra được kết luận cho câu nói trên

Kết bài: Khẳng định lại về ý nghĩa của câu nói

Bình luận (0)
NGUYEN THI DIEP
Xem chi tiết
T.Thùy Ninh
3 tháng 6 2017 lúc 18:01

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.


Bình luận (0)
NGUYEN THI DIEP
Xem chi tiết
NGUYEN THI DIEP
Xem chi tiết
Như Khương Nguyễn
25 tháng 5 2017 lúc 13:44

Trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương ,tôi đặc biệt thích 4 câu thơ . Hai câu đầu tiên sóng nhau, hô ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng "Ngày ngày... đi qua trên lăng", và "Một mặt trời trong lăng rất đỏ"- hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Màu sắc "rất đỏ" làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Hòa nhập vào "dòng người" đến lăng viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi...Thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một "tràng hoa" muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất nước đến Ba Đình lịch sử viếng lăng Bác. Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Chữ "dâng" chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ không nói "bảy chín tuổi" mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, một cách nói rất thơ: cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân. Qua đó, ta thấy nghệ thuật lựa chọn ngôn từ của Viễn Phương rất tinh tế, biểu cảm và hình tượng. 4 câu thơ trên đã cho thấy tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Tâm tình của nhà thơ, của mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc. Đó là giá trị lớn lao của bài thơ Viếng lăng Bác.

Bình luận (1)
NGUYEN THI DIEP
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
25 tháng 5 2017 lúc 10:41

''Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.''

Hai câu thơ có sự lặp (sử dụng phép điệp)từ "mặt trời". Như chúng ta đã biết rằng, trên thế giới chỉ có duy nhất một mặt trời. Nhưng ở hai câu thơ trên,hai lần nói đến mặt trời lại là hai mặt trời hoàn toàn khác nhau. Vậy, mặt trời nào là thật, mặt trời nào là giả? (không phải là giả mà chỉ là nó hiện hữu trong trí tưởng tượng thôi nhé)Thực ra không có mặt trời giả và thật mà đây là cách nói "thơ" của tác giả nhưng vẫn đảm bảo đủ nghĩa. Ở câu thơ đầu, "mặt trời" của bắp chính là ông mặt trời ở trên trời cao trong xanh, là nhân vật chiếu ánh sáng để giúp cho sự sống của muôn vàn sinh vật trên Trái Đất này. Đối với bắp, mặt trời như một ân nhân rất cần cho sự sống vậy! Còn ở câu thơ thứ hai, "mặt trời" ở đây chỉ một em bé tên Cu Tai ngoan ngoãn ngủ và chơi trên lưng của mẹ, để mẹ có thể yên lòng hái bắp trên đồi. Ôi! Vậy ta thấy rằng mặt trời thứ hai xuất phát từ tình mẫu tử- một tình cảm thiêng liêng và cao quý, em chính là nguồn sống của mẹ để mẹ có thể vượt qua mọi khó khăn, gian lao, đó chính là mặt trời "hạnh phúc nhất", Cuối cùng là ta đã nhận ra được ngòi bút thơ tinh túy của tác giả đã viết nên một bài thơ rất hay và ý nghĩa có thể cho ta hiểu được sự cao quý của tình mẫu tử.

 

_________Nguồn: Thành Đạt tự làm________________

Em mới lớp 8 nên làm không hay lắm! Chị góp ý cho em nha!

Châm ngôn: #Teamthanhdat: Những chiến binh tắc kè hoa, hãy chờ đó!

(Làm cảm xúc chân thật)

Bình luận (3)
NGUYEN THI DIEP
Xem chi tiết
Thảo Phương
26 tháng 3 2019 lúc 18:23

- Hai câu thơ đầu:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

+ Hai câu thơ được tạo nên với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi. Câu trên là một hình ảnh thực, câu dưới là hình ảnh ẩn dụ.

+ Ví Bác như mặt trời là để nói lên sự trường tồn vĩnh cửu của Bác, giống như sự tồn tại vĩnh viễn của mặt trời tự nhiên.

+ Ví Bác như mặt trời là để nói lên sự vĩ đại của Bác, người đã đem lại cuộc sống tự do cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm dài nô lệ.

+ Nhận thấy Bác là một mặt trời trong lăng rất đỏ, đây chính là sáng tạo riêng của Viễn Phương, nó thể hiện được sự tôn kính của tác giả, của nhân dân đối với Bác.

- Ở hai câu thơ tiếp theo:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

+ Đó là sự hình dung về dòng người đang nối tiếp dài vô tận hàng ngày đến viếng lăng Bác bằng tất cả tấm lòng thành kính và thương nhớ, hình ảnh đó như những tràng hoa kết lại dâng người. Hai từ ngày ngày được lặp lại trong câu thơ như tạo nên một cảm xúc về cõi trường sinh vĩnh cửu.

+ Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như tràng hoa, dâng lên Bác. Cách so sánh này vừa thích hợp và mới lạ, diễn ra được sự thương nhớ, tôn kính của nhân dân đối với Bác.

+ Tràng hoa là hình ảnh ẩn dụ những người con từ khắp miền đất nước về đây viếng Bác giống như những bông hoa trong vườn Bác được Bác ươm trồng, chăm sóc nay nở rộ ngát hương về đây tụ hội kính dâng lên Bác.

Bình luận (0)
Nguyen Thi Mai
2 tháng 6 2017 lúc 18:48

Mạch cảm xúc của tác giả cứ thế dâng trào theo thời gin, càng ngày càng mãnh liệt với nghệ thuật ẩn dụ giữa Người và mặt trời.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Mặt trời luôn luôn tỏa sáng rực tỡ để chiếu sáng cho vạn vật sinh sôi nảy nở và Bác Hồ cũng thế, Bác cũng tỏa sáng nhưng còn tỏa sáng hơn cả mặt trời vì Bác luôn chiếu rọi trong lòng mỗi người dân Việt Nam.Màu đỏ tượng trưng cho sự lí tưởng cộng sản sắc đỏ tương lai cho dân tộc, cho quê hương đất nước. Điệp từ "ngày ngày" thể hiện thời gian trôi qua đi nhưng những sự việc trong đời sống thì vẫn cứ diễn ra và đã trở thành một quy luật.Bảy mươi chín là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân, luôn hi sinh cống hiến cuộc đời mình cho dân tộc, quê hương Việt Nam. Luôn luôn yêu thương, nhớ về Bác nên có rất nhiều thế hệ đến lăng Bác để viếng thăm. Đây là một khổ thơ hay và giàu ý nghĩa.

Bình luận (0)