Bài viết số 6 - Văn lớp 8

Nguyễn Thảo Nguyên
Xem chi tiết
Cao Thị Hương Giang
18 tháng 3 2018 lúc 14:29

Từ xưa tới nay, mối tương quan chặt chẽ giữa học và hành đã được nhiều người quan tâm, bàn luận, Học quan trọng hơn hành hay hành quan trọng hơn học? La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã góp một ý kiến xác đáng về vấn đề này trong bài Bàn luận về phép học: Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.

Ý kiến trên đây của ông là sự đúc kết kinh nghiệm sau bao năm nghiền ngẫm và áp dụng trong thực tế phương pháp dạy và học của Chu Tử (tức Chu Đôn Di), một bậc thầy của Nho giáo đời Tống bên Trung Quốc.

Trong phép học của Chu Tử, Nguyễn Thiếp nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa học và hành: học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Vậy, chúng ta phải tìm hiểu xem học là gì? hành là gì?

Học là hoạt động tiếp thu những tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô, học ở bạn bè; tự học qua sách vở và học ở thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết. Học để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình và góp phần hữu ích vào sự nghiệp chung của đất nước, dân lộc. Theo Nguyễn Thiếp, muốn có kết quả tốt phải có phương pháp học tốt. Trước hết phải học từ thấp đến cao. Khi học phải biết tóm lược kiến thức cơ bản đế dễ nhớ, dễ vận dụng. Theo cách nói bây giờ là ta phải biết sơ đồ hóa kiến thức, biết tóm tắt nội dung văn bản đã học.

Hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào những công việc hằng ngày. Ví dụ như một bác sĩ những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình đào tạo sáu, bảy năm ở trường đại học để vận dụng vào việc chữa bệnh cho nhân dân. Những kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng đem kiến thức đã học để thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên... để phục vụ đời sống con người.

Anh công nhân trong xưởng máy vận dụng lí thuyết để cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chị nông dân áp dụng khoa học vào đồng ruộng để có được những vụ mùa bội thu... Học sinh vận dụng những điều thầy dạy để làm một bài toán, một bài văn... đó là hành.

Bác Hồ cũng khẳng định: Học để hành, có nghĩa là học để làm cho tốt, thực tế cho thấy có học có hơn. Ông cha chúng ta ngày xưa đã nói: Bất học, bất tri lí. (Không học thì không biết đâu là phải, là đúng). Mục đích cuối cùng của sự học là nhằm phục vụ cho mọi công việc đạt hiệu quả cao hơn. Nếu học được lí thuyết dù cao siêu đến đâu chăng nữa mà không đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công sức, tiền bạc mà thôi.

Ngược lại, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Trong học tập, học sinh muốn làm được một bài văn hay một bài toán thì không những phải nắm vững lí thuyết mà còn phải biết vận dụng lí thuyết để làm từng kiểu bài cụ thể. Trong công việc, nếu ta chỉ làm theo thói quen, theo kinh nghiệm mà không có lí thuyết soi sáng thì năng suất công việc sẽ thấp và chất lượng không cao. Cách làm theo thói quen chỉ thích hợp với các công việc giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp có liên quan đến khoa học kĩ thuật thì chúng ta bắt buộc phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại.

Quan niệm về học và hành của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cho đến nay vẫn giữ nguyên tính khoa học và tính thực tiễn của nó. Trong giai đoạn khoa học phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay thì tri thức các công việc phức tạp. Lí thuyết đúng đắn có tác dụng soi sáng, dẫn đường cho thực hành. Con người sẽ rút ngắn thời gian mò mẫm, thử nghiệm và tránh được những sai lầm đáng tiếc. Lí thuyết gắn với thực hành sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh hơn và đạt hiệu quả cao hơn.

Do đó, chúng ta không thể coi nhẹ vai trò to lớn của việc học mà phải nhìn nhận, đánh giá đúng mức mối liên quan giữa học và hành. Học và hành phải đi đôi vì chúng có tácđộng hai chiều với nhau. Học hướng dẫn hành. Hành bổ sung, nâng cao và làm cho việc học thêm hoàn thiện. Có học mà không có hành thì chỉ là ôm mớ lí thuyết suông. Trái lại, chỉ chú trọng thực hành mà không chịu học hỏi thì làm việc gì cùng khó khăn. Học và hành là hai mặt của một quá trình, không thể xem nhẹ mặt này hay mặt khác.

Thực tế cho thấy trong tất cả các cấp học ngày nay, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở... phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống để sáng tạo ra những thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người.

Với cách lập luận chặt chẽ, bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp giúp chúng ta hiểu rõ mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, tài năng, đặng góp phần thúc đầy sự hưng thịnh của đất nước, chứ không phải để cầu danh lợi theo kiểu "vinh thân phi gia". Muốn học tốt phải có phương pháp đúng: Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm; đặc biệt học phải đi đôi với hành.

Bình luận (0)
Cao Thị Hương Giang
18 tháng 3 2018 lúc 14:45

Thời nào cũng vậy, học và đào tạo người tài luôn là nỗi trăn trở của những người có tâm. Nguyễn Thiếp là một trong số những con người rất giàu chữ tâm vì đất nước ấy. Khi ra giúp vua Quang Trung trị nước ông đã dành nhiều tâm huyết lo cho sự học của muôn dân. Bài tấu "Bàn luận về phép học" của ông dâng vua đã bày tỏ những quan niệm về cách học chân chính để vua lấy đó mà răn mọi người, còn mỗi người cũng lấy đó làm tiêu chí cho việc học của mình. Trong rất nhiều tiêu chí ấy, Nguyễn Thiếp nhắc tới việc học phải đi đôi với hành.

Con người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu" trong phần cuối của bài tấu, đã bàn về phép học (Luận học pháp): "Học phải rộng sau đó tóm gọn theo điều học mà làm". Rõ ràng từ xưa ông cha ta đã đề cao việc học phải đi đôi với hành. Bác Hồ cũng đã khẳng định: "Học để hành, học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thi học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy". Vậy học và hành là gì? Học là quá trình thu nhận kiến thức, rèn luyện những kĩ năng. Trên con đường phát triển, con người đã tích luỹ được một kho tàng kiến thức khổng lồ và truyền lại cho đời sau. Học là tìm những điều hữu ích từ kho tàng khổng lồ ấy để làm giàu vốn tri thức của mình. Học có thể hiểu rộng ra là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tiếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. "Học" còn là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, không để thụt lùi, lạc hậu. "Học" là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn "hành" nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một quá trình thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một. Học là để hiểu biết còn hành là để quen tay. Chúng ta cần hiểu rõ "hành" vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vô ích. Bởi thế học và hành hết sức quan trọng và có mối quan hệ mật thiết. Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan... lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như thế nào dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên do là "học" mà không "hành", là do học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt động. Ngược lại nêu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn cuộc sống. Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ thông đã khiến các sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi. Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại học. Cho dù những năm gần đây, nhiều phương pháp dạy học tích cực trong và ngoài nước được đưa vào các trường học nhưng việc áp dụng và hiệu quả của phương pháp này vẫn còn rất nhiều hạn chế. Hậu quả sâu xa hơn của việc "học" không đi đôi với "hành" là có nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: "Không biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?". Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc "Học đi đôi với hành" càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Vậy muốn học và hành có hiệu quả mỗi người cần phải học và hành một cách chân chính. Trong bài "Bán luận về phép học", tác giả đã chỉ rõ học chân chính là học làm người, học từ dưới lên cao, từ dễ đến khó, học để áp dụng vào cuộc sống, giúp cuộc sống nhân dân ấm no, hạnh phúc. Điều đó là rất đúng, vì vậy để học và hành có ý nghĩa, chúng ta thử bàn bạc về mối quan hệ giữa học và hành. Nếu chỉ học vì mục đích lấy danh thơm để chứng tỏ với mọi người là ta có học thì chỉ uổng phí và mất thời gian. Hoặc nhiều người đi học để lấy điểm, lấy bằng cấp, theo đuổi chức vụ là những người phục vụ cá nhân, ích kỉ mà không vận dụng kiến thức để làm sao cho có sản phẩm quả là đáng trách. Hành mà không học đôi khi cũng có kết quả nhưng không chắc chắn, kết quả không cao bởi vì quá trình thực hiện công việc chưa có cơ hội kế thừa thế hệ trước bằng kinh nghiệm cũng như lí thuyết. Thậm chí hành mà không học có thể dẫn đến thất bại, phá sản,....Chính vì vậy nên học không hành là vô ích, hành không học thì không có hiệu quả. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp học đi đôi với hành. Sự kết hợp này chắc chắn đạt được kết quả cao. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu lí thuyết, chúng ta vận dụng ngay vào thực tế sẽ có kinh nghiệm để sáng tạo, sửa đổi cho phù hợp, từ đó chúng ta sẽ rút ra được không ít những kinh nghiệm để sáng tạo, sửa đổi cho phù hợp và tiến độ làm vào sản phẩm sẽ nhanh, hiệu quả, có giá trị kinh tế. Bởi vậy mỗi chúng ta hãy hiểu và thực hiện học đi đôi với hành để đem lại hiểu biết, kĩ năng làm việc cho bản thân và góp phần tạo ra của cải vật chất để xây dựng đất nước, đưa dân tộc vượt đói nghèo, sánh ngang với các nước trên thế giới. Từ đó ta hãy hiểu lối học chân chính của La Sơn Phu Tử, nếu học không chân chính sẽ dẫn đến mất nước quả là rất đúng.

Qua phân tích tác dụng của việc "học đi đôi với hành" ta thấy quan điểm của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp luôn đúng ở mọi thời đại, đây là một phương pháp học đúng đắn và hiệu quả nhất. Vì thế, bắt đầu từ bây giờ chúng ta hãy áp dụng những kiến thức mình học được vào trong cuộc sống để việc học không trở nên nhàm chán, lãng phí và mỗi ngày đi học sẽ là một cuộc phiêu lưu thú vị, hữu ích. Hãy chọn cho mình một lối đi vào đời, theo từng ngành nghề mà mình yêu thích. Đừng học một đàng hành một nẻo. Vừa phí công học tập, lại không giúp ích gì được cho nước nhà. Học và hành để có tri thức, để làm một con người sống đạo đức. Như thế mới có thể đạt được những gì mình mong ước, và góp phần xây dựng đất nước.

Bình luận (0)
Nguyễn Hồng Pha
Xem chi tiết
nguyen
21 tháng 3 2017 lúc 7:53

p tham khảo bài này nhé!hihi.

Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ là những văn bản còn lưu lại mãi mãi trong sử sách nước nhà. Qua hai văn bản này ta thấy rất rõ vài trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn.

Thật vậy, trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc Việt Nam, các vị lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn có vai trò cực kì quan trọng.

Trước hết, họ là những người yêu Tổ quốc Việt Nam thật sâu sắc nên đã hết lòng chăm lo việc nước.

Vì lo cho sự hưng thịnh lâu dài của đất nước mà Lý Công Uẩn mới quyết định chọn đất Thăng Long, một nơi có nhiều lợi thế hợp với lẽ thiên thời, địa lợi, nhân hoà để làm kinh đô mới "kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời".

Trần Quốc Tuấn cũng vì lo cho vận mệnh của đất nước mà nung nấu dạ căm thù quân cướp nước và ý chí tiêu diệt giặc: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, núi gần uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng".

Các vị lãnh đạo tài ba cũng đã nghiêm khắc phê phán những điều sai trái; không có lợi cho quốc gia. Lý Công Uẩn phê phán hai triều Đinh Lê đã không biết nhìn xa trông rộng nên đã chọn nơi không thuận lợi để đóng đô. Trần Quốc Tuấn thì phê phán lối sống ăn chơi, hưởng lạc không phù hợp với tình thế nguy ngập của non sông của một số tướng sĩ lúc bấy giờ.

Họ cũng là những người có trí tuệ và mưu lược cao sâu nên Lý Công Uẩn mới có thể nhìn rõ địa thế tuyệt đẹp của Thăng Long để quyết định dời đô và Trần Quốc Tuấn thì đúc kết binh pháp để viết ra cuốn Bình Thư Yếu Lược dùng cho quân sĩ học tập và rèn luyện.

Tóm lại, những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đã có cơ lao rất lớn trong việc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quốc gia hưng thịnh vững bền.

Bình luận (3)
halinhvy
1 tháng 3 2019 lúc 18:42

Sự hưng thịnh của một quốc gia, triều đại từ ngàn đời nay vẫn gắn liền với tên tuổi của những nhà lãnh đạo tài ba, kiệt xuất. Đọc Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, ta càng thêm khâm phục và kính trọng nhân cách cùng tài năng của hai người lãnh đạo mẫu mực trong lịch sử nước nhà.

Tố chất đầu tiên của những nhà lãnh đạo kiệt xuất là có tài nhìn xa trông rộng, Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều thể hiện rõ điều ấy trong Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ. Đối với Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã vô cùng sáng suốt khi phân tích những lí do cần phải dời đô: các triều đại nhiều lần dời đô nên vận nước dài lâu, các triều đại không chịu chuyển dời thì vận nước ngắn ngủi. Như vậy, bằng lý lẽ sắc sảo, lập luận chặt chẽ, ông đã thể hiện được mối quan hệ giữa dời đô và sự hưng thịnh của đất nước: thực tế đã chứng minh việc dời đô là cần thiết, dời đô là thuận theo lòng dân và ý trời. Lý Công Uẩn tiếp tục cho thấy rõ ông là một vị vua anh minh khi nhìn thấy trước cả một tương lai rực rỡ của Đaị Việt nếu dời đô về Đại La. Ông liệt kê hàng loạt những lí do để thấy Đại La xứng đáng là kinh đô mới của nước ta: là kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, thế rồng cuộn hổ ngồi, nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng, cao mà thoáng, dân cư muôn vật rất mực phong phú tốt tươi. Còn với Trần Quốc Tuấn, từ thực tế giặc Mông Nguyên đã xâm lược nước ta hai lần, ông nhận thấy rõ nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược lần ba. Đọc bài hịch, ta mới thấu tấm lòng của vị chủ tướng, nỗi lo lắng cho vận mệnh dân tộc: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ tiếc không thể xẻ thịt lột da, uống máu quân thù”. Trí tuệ anh minh còn ở chỗ ông lên tiếng tố cáo tội ác của quân giặc, khích lệ ý chí lập công danh, hy sinh vì nước của các tướng sĩ, đồng thời phê phán những trò tiêu khiển, những thói ăn chơi hưởng lạc tầm thường, những suy nghĩ cá nhân ích kỉ sẽ để lại hậu quả là nước mất nhà tan, thái ấp không còn, bổng lộc bị mất, tổ tông bị giày xéo, chịu nhục, mang tiếng... Lời lẽ vừa thấu lí vừa đạt tình đã giúp khơi dậy ở tướng sĩ lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm tiêu diệt giặc ngoại xâm để bảo vệ nước nhà. Như vậy, từ việc nhận thức rõ về tình hình đất nước, các nhà lãnh đạo đều đã đưa ra những quyết định đúng đắn, táo bạo để giúp dân tộc ngày càng vững bền và hùng mạnh hơn nữa.

Tài năng vô cùng quan trọng, nhưng cái ở lại trong lòng người lại chính là nhân cách tỏa sáng, yêu nước thương dân của người lãnh đạo. Kết thúc Thiên đô chiếu, Lý Công Uẩn khẳng định mong muốn chọn Đại La làm kinh đô nhưng cũng không quên hỏi ý kiến “các khanh” về ý muốn đó. Cách kết thúc đã thể hiện tư tưởng dân chủ, khẳng định ý vua và lòng dân hòa hợp, sự tôn trọng ý kiến của nhân dân. Không chỉ thế, tác phẩm còn thực sự là một lời hiệu triệu toàn dân tộc chung ý chí để làm nên sự nghiệp lớn. Còn với Trần Quốc Tuấn, ông không chỉ là một vị tướng mà còn như một người cha đối với các binh sĩ. Ông vừa nghiêm khắc vừa khuyên bảo nhẹ nhàng tướng sĩ nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực luyện tập, trao đổi binh thư sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược.

Qua hai tác phẩm, ta càng hiểu rõ người lãnh đạo anh minh có vai trò quan trọng như thế nào đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Vì thế, mỗi chúng ta cần bày tỏ lòng biết ơn đối với họ- những con người hy sinh suốt đời để đất nước được trường tồn, nhân dân mãi ấm no.

Bình luận (0)
Sơn Tặc
Xem chi tiết
Yuuki Hina
30 tháng 4 2018 lúc 21:27

Viết bài văn hay đoạn văn vậy bạn vui

Bình luận (0)
Yuuki Hina
30 tháng 4 2018 lúc 21:28

Nếu là bài văn thì :

Khi công nghệ thông tin phát triển, ra đời mạng điện tử, có những nhà sáng chế, lập trình viên đã sáng tạo ra những trò chơi điện tử với mục đích ban đầu là giúp người chơi thư giãn sau những phút giây căng thẳng của công việc. Tuy nhiên, khi các trò điện tử ngày càng phổ biến, đã diễn ra các hiện tượng nghiện game rộng khắp không chỉ ở một nước mà trên nhiều nước. Đặc biệt đối tượng học sinh là những người bị nghiện game nhiều nhất.

Game được hiểu là những trò chơi điện tử được các lập trình viên có đầu óc máy tính, sáng tạp phong phú tạo nên. Nghiện game là hiện tượng đang phổ biến rộng khắp. Nó còn được cảnh báo nguy hiểm như nghiện thuốc phiện, khiến cho người chơi mê muội vào nó, không còn để ý xung quanh.

Tại Việt Nam, hiện trạng học sinh nghiện game vô cùng phổ biến. Ta có thể bắt gặp những quán nét đầy những thanh thiếu niên còn đang mặc bộ đồng phục trắng ngồi trong các quán nét chơi hàng giờ liền, có nhiều người chơi qua ngày. Hay có thể thấy những clip trên mạng quay lại cảnh những quán net đầy những học sinh, hay cảnh bố mẹ cầm roi, quát mắng mà vẫn cố chơi cho nốt. Những quán điện tử xuất hiện tần số nhiều hơn, được trang bị nhiều máy tính công nghệ cao hơn, phục vụ cho “nhu cầu” của học sinh.

Hiện tượng nghiện game ngày càng phổ biến bởi nhiều lý do. Game ngày càng được sáng tạo đầy phong phú. Theo thị yếu của người chơi, những người tạo ra nó không ngừng sáng tạo những trò điện tử đầy màu sắc, đầy hấp dẫn. Trò chơi đa dạng nhiều thể loại : trí tuệ, hành động,… Tính đa dạng, mới mẻ của game thu hút, hấp dẫn với lứa tuổi học sinh thích tìm hiểu điều mới. Học sinh ý thức còn kém trong việc quản lý thời gian chơi của mình, không thể ngừng chơi, không thể làm chủ bản thân mình. Học sinh cũng còn thiếu nhận thức về tính nguy hại của các trò điện tử. Hơn thế cha mẹ quản lý lỏng lẻo, buông thả con cái. Nhiều bậc phụ huynh mải mê với công việc mà quên mất quan tâm đến con khiến nhiều học sinh vì cô đơn mà tìm đến trò chơi điện tử.

Nghiện game giống như nghiện các loại ma tuý vậy, nó có rất nhiều tác hại khôn lường. Trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều vấn đề của sức khoẻ, tâm lý học sinh. Học sinh dễ bị cận thị, loạn thị vì sử dụng máy tính tần số cao. Nghiện game cũng gây ảnh hưởng tới xương cột sống, đến não bộ,… Hơn vậy, nhiều học sinh vì nghiện game mà mắc các bệnh tâm lý như trầm cảm,… Nghiện game còn tốn tiền bạc, thời gian. Chơi game tốn rất nhiều thời gian, và như thế học sinh lấy đâu thời gian để học và tham gia các hoạt động khác. Học sinh chưa thể kiếm ra tiền, số tiền bố mẹ cho tiêu vặt hàng tháng cũng không thể đủ cho ham mê trò chơi được, điều này dẫn đến nói dối, lấy cắp tiền,… sinh ra rất nhiều thói hư tật xấu mà một người học sinh không thể có. Đối với học sinh, nghiện game là con đường ngắn nhất dẫn tới học hành sa sút, điểm số kém dần, lượng kiến thức thiều hụt bởi đầu óc tâm trí để vào các trò chơi điện tử.

Đây là hiện tượng đáng báo động buộc chúng ta phải lên tiếng và đề ra những biện pháp ngăn chặn. Với nhà trường phải có những cách thức ngăn chặn, dạy bảo và tổ chức nhiều các hoạt động ngoại khoá thú vị để học sinh tham gia. Với phụ huynh phải thường xuyên theo dõi, quản lý thời gian sử dụng máy tính của con cái. Và với học sinh,phải có ý thức tự giác, tự quản lý bản thân và không ngừng học tập, rèn luyện.

Xã hội ngày một phát triển, con người có nhiều cách để giải trí khác nhau. Vậy tại sao ta không tham gia những hoạt động giải trí lành mạnh mà lại để hiện tượng game ngày một phổ biến như vậy? Điều này chúng ta thật cần quan tâm và loại bỏ.

Vấn đề nghiện game online hiện này vẫn đang trở nên bức thiết đặc biệt đối với các bạn học sinh khi suy nghĩ còn chưa chín chắn vẫn chưa nhận thức được tác hại và lợi ích của chơi game và cũng chưa biết cân bằng giữa giải trí và nghiện nên kéo theo rất nhiều hệ lụy khác nhau. Bên cạnh đó nghiện game trên điện thoại cũng trở nên đáng báo động. Thực tế việc chơi game bây giờ đa số đều tốn thời gian chứ ít mang tính chất giải trí vì người dùng sử dụng quá nhiều thời gian vào việc chơi game mà quên đi việc học tập hoặc lao động. Vì thế nếu có thể ban không nên chơi bất kỳ game nào mà hay lo học hành ra ngoài chơi các trò thể thao vận động sẽ tốt hơn

Bình luận (0)
Vũ Thảo Uyên Nhi
Xem chi tiết
Dương Phương Trà
17 tháng 3 2017 lúc 23:04

Trong cuộc sống, có lẽ ai trong chúng ta cũng đều mong muốn gặt hái được nhiều thành công. Thành công, đó có thể là lúc chúng ta tự mình nỗ lực đặt chân lên đỉnh núi cao vời vợi rồi lặng ngắm cả thế giới, là phút giây giật tung dải ruy băng và vỡ òa trong chiến thắng vì biết mình là người về đích trên đường đua sớm nhất,… Đó chính là kết quả của sự rèn luyện và phấn đấu không ngừng. Không ai trong chúng ta đạt được thành công mà không phải chăm chỉ, mệt mài, khổ luyện. Cũng giống như câu nói “Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”

Thành công là khi bạn đạt được một mục tiêu, một điều gì đó trong cuộc sống và có lẽ thành công là ước muốn của rất nhiều người. Một con người thành công thường là người có đỉnh cao trên cuon đường công danh sự nghiệp, có địa vị nhất định. “Lười biếng” là không chịu làm việc, không chịu suy nghĩ, là thụ động, không cố gắng nỗ lực phấn đấu. Còn “dấu chân” là một cách nói hình tượng để chỉ những dấu ấn của con người trên bước đường thành công, những con người đó là những con người luôn lao động miệt mài, chăm chỉ học tập, sáng tạo không ngừng nghỉ. Và học xứng đáng được bước trên con đường đó. Nói “Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng” tức là khẳng định hành trình đến thành công không bao giờ có sự góp mặt của những kẻ lười biếng. Và chúng ta không thể thành công nếu không chăm chỉ, miệt mài làm việc và cố gắng theo đuổi mục tiêu mà mình đã đặt ra. Cánh cửa thành công chỉ chào đón những ai nỗ lực không ngừng nghỉ.

Có thể thấy, thành công không phải là đích đến mà là cả một hành trình dài dằng dặc. Liệu rằng những con người biếng liệu có đủ kiên nhẫn để bước đi trên con đường đó? Hơn nữa, con đường ấy không chỉ dài mà nó còn nhiều cạm bẫy, những chông gai, thử thách. Những kẻ lười biếng khi bước đi trên con đường đấy, chắc chắn sẽ vấp ngã và gặp phải những thất bại đau đớn. Đường thành công cũng không phải là con đường mòn mà nó là con đường mới, đòi hỏi sự đột phá, sáng tạo. Những người chỉ trông chờ, ỷ lại, thụ động không chịu suy nghĩ chắc chắn sẽ không thể thành công được. Kẻ lười biếng thụ động, dựa dẫm, thích hưởng thụ sẽ trờ thành con ngừoi ích kỉ, vô dụng cho người thân, gia đình, và xã hội. Trái lại, nếu chúng ta chăm chỉ, chịu khó, kiên nhẫn nỗ lực không ngừng trên con đường dài ấy, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được nhiều quả ngọt, hoa thơm. Thành công cần có năng lực tốt, nhưng kể cả khi bạn có điểm xuất phát thấp, năng lực chưa tốt chỉ cần bạn chịu khó, kiên trì bề bỉ, chắc chắn bạn sẽ đạt được điều bạn muốn. Chịu khó suy nghĩ, lao động, sáng tạo không ngừng nghỉ sẽ giúp bạn có kinh nghiệm vững chắc, từ đó giúp bạn tự tin hơn trên con đường thành công của mình.

Bình luận (1)
Mai Hà Chi
29 tháng 6 2017 lúc 23:05

DÀN BÀI :

I. Mở bài.

- Chúng ta thường nói: thiên tài chỉ là 1%, còn 99% là mồ hôi và nước mắt. Đúng vậy, để có được thành công trong bất kì lĩnh vực nào trong cuộc sống, trong nghiên cứu khoa học,... con người cần có sự cố gắng, nỗ lực lao động rất nhiều.

- Không có sự thành công nào lại đến với chúng ta một cách dễ dàng.

- Trích dẫn câu nói : Chính vì thế, Lỗ Tấn – nhà văn nổi tiếng Trung Hoa đã bằng kinh nghiệm của mình mà phát biểu rằng: “Trên bước đường thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”. Đó là một kinh nghiệm hoàn toàn đúng đắn, có ý nghĩa, tác dụng giáo dục cao.

II. Thân bài. 1. Giải thích.

“Trên bước đường thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”.
Có nghĩa là, trên con đường đi đến những thành công, đến với đỉnh cao vinh quang, thắng lợi,... thì không thể có những kẻ lười biếng đi được đến đích; mà chỉ có những con người luôn chăm chỉ học tập, lao động để vượt qua mọi khó khưan thử thách, những chông gai trên đường đi,... mới đến ược thành công vinh quang. Những kẻ lười biếng, không có lòng quyết tâm vượt gian khó, không chăm chỉ lao động, nghiên cứu, học tập,... thì không thể đi đến thành công.

- Nói cách khác, cái đích cuối cùng trên con đường đi của những kẻ lười biếng, không chăm chỉ học tập, nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, lao động,... chính là thất bại. 2. Phân tích, chứng minh, bình luận. a. Phân tích.

- Bằng dẫn chứng cụ thể trong học tập, lao động,... của chính bản thân mình và qua những người bạn xung quanh. (theo 2 ý trên ta vừa giải thích).

+ Trong học tập: học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường cái đích cuối cùng là tốt nghiệp được các cấp học và ra trường để có ngành nghề, tạo lập cuộc sống cho mình (vật chất và tinh thần). Nhưng nếu học sinh, sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu lại lười biếng, ham chơi, không học tập một cách nghiêm túc, chăm chỉ, vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần thì không thể có kết quả tốt được. Ngược lại, nếu học sinh, sinh viên mà vượt qua được những khó khăn, thử thách, chăm chỉ lao động, học tập, nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo thì chắc chắn sẽ đi đến được thành công.

- Nhiều người cho rằng mình thông minh, là tài năng không cần học chăm chỉ mà chỉ cần học lướt qua, không rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo trong học tập. Đến khi vào công việc, bài học cụ thể thì không giải quyết được đúng quy trình dẫn đến sai kết quả. Cần luôn biết rằng, để trở thành thiên tài thì chỉ có 1% là tài năng bẩm sinh, còn 99% là sự lao động, mồ hôi và công sức đổ ra mới có được. b. Chứng minh trong: học tập, lao động, nghiên cứu,.. c. Bình luận. - Nếu chúng ta muốn có thành công thì một trong yếu tố quan trọng nhất là ta phải chăm chỉ học tập, làm việc,... thì mới có kết quả như mong muốn.
- Trong xã hội ngày nay, thế hệ trẻ có rất nhiều người đã thành công trong học tập, lao động, công tác trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là nhờ quá trình chăm chỉ học tập, lao động, nghiên cứu,...
- Nhưng cũng có không ít người vì quá ham chơi mà sa ngã vào các tệ nạn xã hội, nhiều người đã phải trả giá rất đắt cho sự lười biếng, không chăm chỉ học tập, lao động,.. của mình. 3. Mở rộng.
III. Kết bài

- Khẳng địn sự đúng đắn, ý nghĩa, giá trị, tác động giáo dục của lời phát biểu.
- Bài học cho bản thân và những người khác
Bình luận (0)
Mai Hà Chi
29 tháng 6 2017 lúc 23:06
Vận động viên thể thao phải luyện tập chăm chỉ mới có thể đạt huy chương trong cuộc thi đấu. Nhà khoa học phải vùi đầu vào các thí nghiệm mới mong đưa ra những phát minh mới. Học sinh muốn đỗ đạt phải dày công đèn sách, dùi mài kinh sử. Nhìn chung, thành công chỉ đến với những ai chịu khó lao động chăm chỉ, miệt mài. Chân Phước Richard Rolle cho rằng: “Muốn lên thiên đàng, chúng ta phải vượt qua một chặng đường đầy cố gắng, phải tập tành các nhân đức, cầu nguyện liên lĩ, những tư tưởng tốt lành, những việc làm phúc đức…”. Cũng vậy, Lỗ Tấn có viết: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”. Chúng ta cùng xem xét điều Lỗ Tấn nói có đúng không?


Thành công là đạt được những điều mong ước. Mà để đạt được điều mong ước đó, người ta không có cách nào khác là bỏ công sức ra lao động miệt mài. Thomas Alva Edison bỏ ra mỗi ngày hai mươi giờ để làm việc, nên ông mới có hơn hai ngàn năm trăm bằng phát minh. Để đưa ra các định luật nổi tiếng đánh đổ nhiều quan niệm lâu đời, Newton hiếm khi đi ngủ trước hai giờ khuya. Ngoài ra, ông còn nhiều lần quên ăn quên ngủ. Còn ông bà Curie phải vất vả nấu hàng tấn quặng thô để tinh chiết ra chất radium trong bốn mươi lăm tháng trời. Chính Franklin đã nói: “Siêng năng cày cấy đúng thời – Tới mùa lúa chín của Trời đầy kho”. Do đó, thành công được đánh đổi bởi công lao khó nhọc làm việc vất vả, nên người lười biếng sẽ không thể có được thành công đích thực trong cuộc sống.


Sống trên đời, con người ta phải lao động để có cái ăn cái mặc. Đó là một nghĩa vụ, như ca dao Việt Nam có câu: “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Tục ngữ Việt Nam thì nói: “Tay làm, hàm nhai”. Còn Franklin thì cho rằng: “cáo ngủ không bắt được gà”. Chính Thánh Phaolô cũng nói rất cương quyết: “Ai không làm thì đừng có ăn”. Khi ở giữa các giáo đoàn, Thánh Phaolô không muốn thành gánh nặng cho các tín hữu, ngài làm nghề dệt bao bố để sinh sống. Còn những kẻ lười biếng là những kẻ chỉ thích ở không, sợ vất vả khó nhọc, sợ làm việc thì thật đáng chê trách, đáng bị lên án. Như thế thì làm sao kẻ lười biếng có được thành công? Một anh nhân viên lười biếng, sợ công việc, nên đi muộn, về sớm, trốn tránh công việc nếu không bị đuổi việc sớm thì cũng chỉ là một nhân viên quèn mà thôi, chứ không mong chi được thăng chức, được tăng lương.


Để đạt được thành công, người ta không chỉ chịu khó làm việc, mà còn phải ham thích công việc, phải làm việc một cách tích cực đến mức không muốn nghỉ ngơi. Thánh Tôma Aquinô cho rằng: “không làm việc, không có niềm vui”. Còn Thánh Don Bosco thì trả lời khi các con cái ngài khuyên ngài nghỉ ngơi rằng: “Thiên đàng mới là chốn nghỉ ngơi”. Một mẫu gương ham thích công việc là ông Heinrich Schlieman. Ông say mê công việc khảo cổ đến nỗi đã bỏ ra bốn chục năm đào bới khắp các hòn đảo mới tìm ra thành Troy và nhiều di thành quách khác đã được nhắc trong các truyện thần thoại cổ. Trong khi đó, người lười biếng còn là người trễ nãi, lừng khừng, không yêu thích, không tha thiết với công việc. Do đó, người lười biếng không thể có được thành công. Một anh sinh viên chẳng có một tí ham thích chuyện học hành, thường xuyên đi học muộn, trốn học, không mấy khi lên thư viện nghiên cứu, mãi la cà ở quán café, quán nhậu…đến cuối năm nếu thi cử nghiêm túc thì cơ may đậu của anh ta rất thấp. Nếu may mắn ra trường được, và tiếp tục thói lười biếng đó, cuộc đời của anh ta không có gì là sáng sủa.


Công việc luôn đòi hỏi người ta làm việc tỉ mỉ, cẩn thận, làm đến nơi đến chốn được. Như thế mới hoàn thành tốt công việc và đạt được yêu cầu của công việc. Hay nói cách khác là thành công trong công việc. Người kế toán phải tính toán kĩ lưỡng, chi tiết từng con số trong sổ sách, thì mới có được sự chính xác. Để tổng kết nên những định luật đặt nền móng cho ngành di truyền học, ông tổ ngành di truyền là Menden đã phải trồng, theo dõi, kiểm tra và tính toán tổng kết về sự khác nhau giữa các hạt đậu Hà Lan mà ông làm thí nghiệm. Ông phải quan sát nhiều đến mức cuối đời ông bị mù cả hai mắt. Trong khi đó, những kẻ lười biếng là kẻ làm việc cẩu thả, làm cho có làm, làm cho xong công việc thì không thể đạt kết quả cao trong công việc được. Một bác sĩ lười biếng, làm việc thiếu cẩn thận tỉ mỉ, thì rất dễ dàng gây ra những điều đáng tiếc cho bệnh nhân và tai họa cho chính bản thân. Một anh thợ xây mà thiếu cẩn thận, công trình anh ta làm mau chóng xuống cấp, mau chóng hư hại, để rồi anh ta sớm muộn cũng bị truy cứu. Những kẻ lười biếng như thế nhanh chóng bị xã hội loại thải, chứ không mong chi thành công.


Tóm lại, thành công luôn đòi hỏi con người ta nhiều sự cố gắng nổ lực hết mình. Do đó, không thể có thành công nếu cứ mãi sống một cách buông thả, lười biếng được. Những kẻ lười biếng chỉ có thể bước vào con đường của thất bại, hoặc may mắn là con đường tầm thường thôi. Hơn nữa, những kẻ lười biếng thường bị xã hội chê ghét, xem thường, khinh bỉ, như ca dao có câu: “giàu chi những kẻ ngủ trưa, sang chi những kẻ say sưa tối ngày”. Và ông bà thường khuyên con cháu:

“Thói thường gần mực thì đen

Anh em bạn hữu phải nên chọn người

Những kẻ lêu lỏng chơi bời

Cũng là lười biếng ta thời tránh xa”.

Do vậy, bàn chân của những kẻ lười biếng sẽ không bao giờ có thể bước vào con đường thành công được ~ Chúc bn hk tốt!!!~
Bình luận (0)
Ngân Hoàng Trường
Xem chi tiết
Dương Phương Trà
17 tháng 3 2017 lúc 23:11

-học để chung sống , học để có khả năng hoà nhập với cộng đồng người, tạo ra mối quan hệ đẹp,gắn bó, bền vững... với gia đình,bạn bè, thầy cô,đồng nghiệp...

- Học để tự khẳng định mình - học tập để có thể phát huy,bộc lộ những khả năng lớn nhất của bản thân;để đc xã hội thừa nhận những khả năng ấy từ đó khẳng định cái tôi cá nhân của mình. Để có thể khẳng định mình trên một lĩnh vực nào đó,người học phải có đc những thành tựu xuất sắc.

- học để làm là học tập để có khả năng lao động, tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và đóng góp cho gia đình, xã hội.

Bình luận (0)
Phạm Thanh Huệ
Xem chi tiết
Thảo Phương
14 tháng 5 2020 lúc 21:31

Trần Quốc Tuấn tức hiệu là Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất, văn võ song toàn, có công lớn với dân tộc ta. Vào năm 1285, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, ông đã viết "Hịch tướng sĩ" nhằm khích lệ, kêu gọi các tướng sĩ đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Qua bài hịch, ta thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết của vị chủ tướng tài ba.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài hịch được thể hiện qua những cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau.

Ngay từ câu văn đầu tiên, Trần Quốc Tuấn đã đưa ra các tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khơi gợi lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ. Trong đó có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng; lại có cả những người bình thường, những kẻ bề tôi xa như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Cách nêu gương như vậy thật toàn diện! Nó có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa "lưu danh sử sách, cùng trời đất, muôn đời bất hủ". Lịch sử nước Nam không thiếu anh hùng nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Điều đó thể hiện một cái nhìn rất phóng khoáng của ông: không cần phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng được ca ngợi.

Sau khi nêu những tấm gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế "thời loạn lạc", buổi "gian nan của đất nước" cũng là lúc lòng yêu nước của ông thể hiện cao độ. Đọc tác phẩm, ta cảm nhận được những lời lẽ đanh thép, vạch trần tố cáo bộ mặt của kẻ thù. Với bản chất ngang tàn, hống hách chúng không chỉ coi thường dân ta mà còn xỉ nhục, lăng mạ triều điều từ vua đến quan: "đi lại nghênh ngang ngoài đường", "sỉ mắng triều đình", "bắt nạt tề phụ", "đòi ngọc lụa", "thu ngọc vàng", "vét của kho có hạn". Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ "sứ giặc" như "lưỡi cú diều","thân dê chó", "hổ đói"; ông đặt chúng ngang với lũ súc sinh, không còn liêm sỉ. Từ đó Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp cũng như đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ.

Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi lòng của mình "Ta thường tới bữa quên ăn; nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" và tột cùng là "chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Những hành động mạnh mẽ ấy không chỉ thể hiện sự căm thù giặc mà còn là ý chí quyết chiến quyết thắng, một phen sống chết với quân thù. Cao hơn nữa, ông còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho Tổ quốc: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Tất cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ông đều được đẩy tới cực điểm! Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù như được viết nên từ máu và nước mắt. Để rồi nó trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm; dồn nén thì khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và hình ảnh đã khắc họa được hình ảnh người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm người tướng sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, Trần Quốc Tuấn còn luôn quan tâm, sẻ chia, theo dõi những tướng sĩ dưới quyền khi xông pha trận bão cũng như khi thái bình: "không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng,...". Từng đây thôi cũng đủ hiểu ông là một vị tướng như thế nào! Trên cơ sở, mối quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ vô trách nhiệm trước vận mệnh nước, lơ là cảnh giác trước kẻ thù "nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái dương để đãi yến ngụy sự mà không biết căm". Cái sai tiếp theo là hành động hưởng lạc: ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, lo làm giàu, quyết luyến vợ con,... Đồng thời ông cũng chỉ rõ hậu quả của tất cả những việc đó: tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ hay thiêng liêng hơn là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ... Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu Tổ quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhằm để đánh bại những tư tưởng dao động, bàng quan giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng và đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Cuối cùng ông nêu ra hai viễn cảnh: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể đến nơi mà phúc như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều chúng khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là "chuyên tập sách này" – cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện "mới chỉ là đạo thần chủ" còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân "tức là kẻ nghịch thù". Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng.

Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát", họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.

"Hịch tướng sĩ " của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại: sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.

Bình luận (0)
Trần Thị Ngọc Trâm
17 tháng 3 2017 lúc 15:15

Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.

Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng nước xả thân cho nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - và cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay mà không chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: "Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyển đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vua tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Thái tràn sang: "cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bây giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: "Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" "làm run sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên".

Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.

Bình luận (1)
Phú An Hồ Phạm
Xem chi tiết
Phạm Mỹ Duyên
17 tháng 3 2018 lúc 21:02

Nếu ta ví kiến thức là một công trình tuyệt tác , một kỳ quan của nhân loại thì sách chính là vật liệu làm nên công trình đó.Hoặc nếu ví kiến thức là một dòng sông xanh ngát, thì sách chính là con thuyền luôn xuôi trên dòng sông kiến thức ấy ,con thuyền mà các nhà bác học ,những nhà vật lý học,những nhà lỗi lạc đã đi.Và nếu ví kiến thức lớn như trái đất thì sách là mặt trăng luôn quay xung quanh trái đất ấy là kiến thức.Tất cả, tất cả cho ta thấy rằng giữa sách và kiến thức có một mối quan hệ mật thiết với nhau như thế nào.Chính vì vậy mà nhà văn M. Go-rơ-ki đã nói: "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống".

Vậy sách là gì ? Tại sao sách và kiến thức lại có mối quan hệ mật thiết như vậy? Sách là là một loạt các tờ giấy có chữ hoặc hình ảnh được viết tay hoặc in ấn, được buộc hoặc dán với nhau về một phía. Một tờ trong cuốn sách được gọi là một trang sách. Và sách chứa đựng các giá trị văn hóa tinh thần (các tác phẩm sáng tác hoặc tài liệu biên soạn) thuộc các hình thái ý thức xã hội và nghệ thuật khác nhau, được ghi lại dưới các dạng ngôn ngữ khác nhau (chữ viết, hình ảnh, âm thanh, ký hiệu,...) của các dân tộc khác nhau nhằm để lưu trữ, tích lũy, truyền bá trong xã hội.Hoặc có thể nói đơn giản là sách chính là phương tiện lưu trữ kiến thức, dùng để nối con người giữa hiên tại với quá khứ .Và tái hiện những kiến thức từ hàng ngàn năm qua của con người thu nhập, gom góp và tích luỹ qua từng trang giấy trắng và nét chữ đen của sách.Sách chính là món quà tinh thần ,vật chất đáng quý nhất , là báu vật vô giá và chính là nơi giữ kho báu trí tuệ nhân loại hàng vạn thế kỉ nay.Để tích góp nguồn kho báu kiến thức đó,con người đã đánh đổi bao mồ hôi,nước mắt ,đau khổ và máu chính mình.Vì vậy mà sách và kiến thức có mối quan hệ mật thiết như vậy.Và ta phải có thái độ đúng với sách,là nơi cất giữ và là con đường dẫn đến kiến thức.

Sách có một tầm quan trọng ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống con người.Là cơ sở ,nền tàng kiến thức dẫn con người có những phát minh vĩ đại.Và để con người được sống trong đời sống văn minh, khoa học- kĩ thuật và công nghệ.Là một nhà sử học luôn tái diễn từng quá trình giai đoạn lịch sử con người ,từ thời nguyên thuỷ cổ đại đến sự hình thành những vương quốc,những cuộc chiến vẻ vang của mỗi dan tộc được sách nói qua các trang giấy.Đến những cuộc chiến giành thuộc địa của các nước tư bản trong thế kỉ 20, cuôc sống khốn cùng của con người và chiến tranh .Cho ta thấy lịch sử của một nước nói chung và nhân loại nói riêng.Sách còn cho thấy những điều rông hơn,xa xôi mà con người vẫn còn chưa khám phá hết.Những hành tinh ,dải ngân hà , những hiện tượng kì lạ.Sách cũng luôn hướng dẫn ta sống tốt ,giúp ta nên người nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.Sách như một cánh cửa thần kì có thể đưa ta tham quan du lịch khắp nơi trên toàn thế giới.Và sách còn là người bạn, người anh em, người thầy và là ngọn đèn bất diệt soi dẫn ta thoát khỏi bóng tối dốt nát,không kiến thức.

Chúng ta hãy tôn trọng ,nâng niu và yêu thương cuốn sách như lời mà nhà văn M. Go-rơ-ki đã nói như tôn trọng và yêu quý một người bạn trung thành, 1 người anh em.Tuy vậy chúng ta cũng không nên đọc sách một cách mù quáng,và không chọn lọc,đọc những cuốn sách phù hợp với lứa tuổi,sở thích và mang tính lành mạnh.

Tóm lại,qua những điều trên cho ta thấy rõ câu nói của M. Go-rơ-ki là đúng đắn.Vì vậy “hãy yêu quý và nâng niu cuốn sách của bạn nhé, vì người bạn này sẽ luôn trung thành bên bạn và cùng bạn đi trên con đường kiến thức”.

Bài mik viết còn fail ,có gì các bạn thông cảm và bình luận ở dưới để mik sửa nên tốt hơn nhé vui

Bình luận (0)
๖ۣۜ ghét๖ۣۜ
15 tháng 3 2018 lúc 23:36

Nếu ví tri thức nhân loại như đại dương mênh mông thì thì sự hiểu biết của chúng ta chỉ là muối bỏ bể. Trên chuyến hành trình đi tìm biển kiến thức vô tận, con người đã dần lớn lên để từ một cá thể nhỏ bé mà tạo nên tiếng nói riêng, phong cách riêng. Sách chính là phương tiện đưa ta đến với nguồn kiến thức vô tận, mở ra môt cánh cửa kì diệu. Chính vì vậy, khi nhận định về tầm quan trọng của sách, M. Go-rơ-ki đã nói:" Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống." Con người yêu sách, nuôi dưỡng "con đường sống" để khẳng định rằng mình tuy là một hạt muối nhỏ bé nhưng góp phần quan trọng trong việc hình thành nên đại dương bao la. vậy sách là gì?

Sách là di huấn tinh thần của thế hệ này đối với thế hệ khác, lời khuyên của người già sắp từ giã cõi đời với người trẻ bước vào tương lai. Sách là sản phẩm tinh thần phi vật thể, kho báu trí tuệ của nhân loại. Sách đã trường tồn với thời gian như một nhân vật quan trọng mãi không bao giờ khuất. Mỗi sớm mai thức giấc, bạn có thấy rằng thế giới quanh ta có biết bao điều kì lạ. Sau cơn mưa, tại sao bầu trời lại xanh ngắt với lung linh bảy sắc cầu vồng? Hiện tượng sấm sét đáng sợ là do đâu? Vì sao nhưng ngôi sao chỉ có thể thắp sáng vào ban đêm?... Tất cả đều mang tầm vóc từ vĩ mô như vũ trụ đến vi mô như tâm hồn con nghười, đều có ở sách. Vì vậy, chúng ta hãy yêu sách. Hãy bảo quản, trân trọng , nâng niu như một người bạn tri kĩ, phải phát huy giá trị mà sách mang đến cho con người. Bởi vì sách không đơn thuần chỉ là " của kho vô tận" mà còn là nơi kí thác những tâm sự riêng tư, thầm kín.

Như ta đã nói, sách cho ta kiến thức, vậy kiến thức là gì? Đó chính là những kỹ năng, kỹ xảo, những hiểu biết của con người trong cuộc sống, nơi lưu giữ tri thức toàn nhân loại được đúc kết qua hàng ngàn, hàng vạn năm trong mỗi lĩnh vực cuộc sống.

Thế tại sao nói sách là nguồn kiến thức? Bởi vì sách là kết tinh trí tuệ con người. Sách không chỉ tác động vào tri thức mà còn ăn sâu vào tinh thấn, bồi dưỡng tâm hồn để ta biết cách sống đẹp, sống tốt và có ích. Sách kết nối không gian, thời gian, kết nối trái tim, tấm lòng con người. Sách là chiếc cầu nối đưa ta từ thực tại ngược dòng thời gian trở về quá khứ để chứng kiến những mốc son vàng lịch sử. Nhờ có sách_ màn ảnh thu nhỏ mà ta có thể đi du lịch khắp thế giới, ngắm nhìn cảnh đẹp và hiểu được cuộc sống sinh hoạt của con người ở những vùng đất xa xôi. Sách mở ra những câu chuyện, tác phẩm văn học thấm đẫm nhân văn để khiến ta khi đọc phải có những suy ngẫm chính chắn hơn về cuộc đời.

Ai cũng biết rằng, nguồn kiến thức mà sách mang đến cho chúng ta là vô tận. đọc sách khoa học để hiểu được nhân loại đã tiến bộ như thế nào từ sự xuất hiện lần đầu tiên của lửa, thích thú với những phát minh của các bậc thầy như Acsimec, Niu-tơn, Anh-xtanh,.. Tìm hiểu sách xã hội để biết được sự phong phú bí ẩn của nên văn hóa từng quốc gia, những địa thế sông núi đẹp do thiên nhiên hữu ý hay vô tình dựng nên. Say sưa bay bổng cùng những tác phầm văn học để đồng cảm hơn với nhân loại. Có tồn tại hay chăng nền văn minh nhân loại nếu không có sách? Không có sách, chúng ta sẽ tiếp nhận nguồn kiến thức khổng lồ bằng cách nào? Hậu quả nếu không có sách là sự tồn tại của lạc hậu, ngu dốt, bần hàn. Nếu con người không tự lớn lên về mặt tri thức thì làm sao có thể làm chủ vận mệnh bản thân và đất nước? Chính vì thế, chỉ có kiến thức mới là con đường sống.

Đọc sách là nghệ thuật cũng là một thú vui hưởng lạc của tâm hồn. Nhưng đọc sách là một việc, ứng dụng sách vào đời sống lại là một việc khác. Một đời người có thể đọc hàng ngàn quyển sách nhưng giá trị của chúng đã được phát huy hết chăng? Cuộc đời vẫn vỗ sóng, bạn có thể khẳng định được gì khi chỉ ngồi ở một chỗ mà tiếp nhận kiến thức? Vì thế, phải biết ứng dụng sách vào thực tiễn một cách phù hợp, đúng đắn. Chẳng lẽ ai lại muốn như Đôn-ki-hô-tê_ vị "quý tộc tài ba" xứ Mantra mãi đắm chìm trong những mộng ảo hão huyền. Nên, hãy đặt trang sách vào cuộc đời chứ đừng nên đặt đời người vào trang sách. Nên nhớ thực tiễn mới là nơi ta sống, sách là phù sa làm giàu có dòng chảy cuộc đời.

Nhưng có điều, không phải sách nào cũng có ích. Loại sách vô ích đầu độc ý nghĩ con người, xuyên tạc cuộc sống, làm ta u mê, ngu muội thì hãy nên loại bỏ. Tuy đọc sách nhều nhưng phải biết gạn lọc mới chính là thái độ đọc sách đúng đắn. Hãy yêu quý, lựa chọn những loại sách giúp ta mở rộng kiến thức , bồi dưỡng tâm hồn, giúp ta yêu cuộc sống, nó phải ca tụng nhân nghĩa, lòng bác ái, vị tha thì mới chính là hành trang của con người trong cuộc chinh phục những đỉnh cao hy vọng.

" Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là coon đường sống." Sách là kho báu trí tuệ. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau giữ gìn, phát huy những giá trị của sách, ứng dụng sách vào đời sống để sách mãi là ngọn đèn soi sáng tâm hồn ta.

Bình luận (0)
Cô Nàg Xử Nữ
Xem chi tiết
Quỳnh Nhi
4 tháng 3 2018 lúc 20:59

* Mở bài:

Mối quan hệ giữa học và hành là vấn đề được các học giả quan tâm từ nhiều nhiều thế kỉ qua. Có thể nói từ khi “Đạo học” ra đời thì vấn đề này cũng được đề cập trong nhiều sách vở. Trong bài “Bàn luận về phép học”, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, một danh sĩ nổi tiếng thời Tây Sơn đã nêu lên phép học đúng đắn cho mọi người dựa trên cơ sở phép dạy học của Chu Tử và nền chính học của nước nhà

* Thân bài:

Mục đích của việc học theo nguyễn Thiếp:

Bàn về phép học Nguyễn Thiếp cho rằng cốt lõi của việc học là rèn luyện con người thành người tố. Học để làm người tốt đẹp, có nhân cách cao thượng, biết phân biệt lẽ đúng sai. Học để giữ gìn đạo lí ở đời.

Cách học đúng đắn là học từ thấp lên cao:

Lúc đầu, học để bồi dưỡng lấy gốc (học đạo đức), sau học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử (học tri thức đời sống và thuật ứng xử) là những kiến thức cơ bản mở đầu cho quá trình học tập lâu dài. Học rộng rồi tóm gọn, theo điều học mà làm.

Lợi ích của việc chấn hưng đạo học:

Con người hiểu rõ đạo lí, đối xử tốt đẹp, nhân tài xuất hiện lập công giúp ích cho đời, nhà nước vững bền, triều đình ngay ngắn, thiên hại thái bình thịnh trị. Đạo đức được đề cao, luật pháp chặt chẽ, kẻ xấu ít đi. Nền chính học vì thế mà cũng được lưu truyền đời đời.

Giải thích và bàn luận:

“Học” là quá trình tiếp nhận, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm từ thực tiễn vào bên trong đầu óc của con người. Học còn có thể hiểu là nắm bắt lí thuyết, biến lí thuyết thành kĩ năng của mình. Cốt lõi của việc học là kiện toàn tri thức trong mỗi con người.

“Hành” là quá trình vận dụng tri thức, kinh nghiệm ấy vào trong cuộc sống nhằm hoàn thành một công việc cụ thể. Hành còn có thể hiểu là quá trình biến lí thuyết thành hành động cụ thể nhằm hoàn thiện một kĩ năng hoặc hoàn thành một công việc. Căn bản của thực hành là kiện toàn kĩ năng, phát huy sức mạnh của tri thức.

Theo Nguyễn Thiếp, học tập cần phải có nhiều thời gian, được phân ra nhiều giai đoạn. Phải gắn lý thuyết với thực hành. Nghĩa, là, học phải đi đôi với hành. Đó chính là điều mà Nguyễn Thiếp muốn nhấn mạnh. Bấy lâu, các nho sĩ chỉ chú trọng vào học thuật, khoe khoang chữ nghĩa mà ít quan tâm đến việc vận dụng chữ nghĩa ấy vào các hoạt động hữu ích khiến cho giá trị đích thực của đạo học bị thất truyền hoặc tiêu tán.

Tại sao học phải đi đôi với hành mới thành công?

Theo Nguyễn Thiếp, mục đích của việc học là học để làm người tốt đẹp, có nhân cách cao thượng; học để biết phân biệt lẽ đúng sai; học để giữ gìn kỉ cương và đạo lí ở đời. Nghĩa là phải biến những điều đã học được thành hành động cụ thể để tạo ra một hiệu quả nhất định.

Nếu “học” mà không “hành” thì nắm vững lí thuyết mà thiếu kĩ năng, thiếu kinh nghiệm thực tế, làm việc dễ thất bại, trở thành người vô dụng. Một đất nước có nhiều người hay chữ, đó là điều tốt. Tuy nhiên, điều đó cũng đem đến những hạn chế to lớn. Đạo học tuy được giữ gìn nhưng không chân thực, thiếu sức mạnh xây dựng hoặc cải biến làm cho xã hội tốt hơn.

Nền tri thức hạn hẹp, thiếu sự sáng tạo hoặc khát vọng sáng tạo sớm muộn gì cũng làm cho nó phai tàn. Giống như muôn hoa đua nở trên cành mà không thơm hương, tuy đẹp mà vô dụng vậy. Người văn hay chữ nhiều mà chỉ biết giữ lại riêng mình, ngôn phong phù phiếm, hành động khoa trương hẳn đã có ích gì?

Nếu “hành” mà không “học” thì có kĩ năng, kinh nghiệm thực tế nhưng thiếu hiểu biết, không có sự chỉ đạo của lí thuyết, dễ mắc sai lầm trong công việc, trở thành kể phá hoại. La Sơn Phu tử cũng đã chú ý đến vấn đề này. Ông dặn dò: “Cứ theo điều học mà làm”. Nghĩa là, khi làm việc không được rời xa điều đã học, đảm bảo đúng đắn, chính xác, không sai lệch.

Nền chính học được xây dựng dựa trên những điều đã được kiểm nghiệm thực tế, nếu lý thuyết đã được khẳng định thì nên tuân theo, không nên làm khác đi. Điều khác biệt, cái mới, cái sáng tạo sẽ được tôn trọng và đề chỉ khi nó đúng, còn nếu làm khác một cách cố chấp, mù quáng thì có khác chi là ngu xuẩn vậy.

Nếu vừa “học” vừa “hành” thì vừa nắm vững lí thuyết vừa có kĩ năng vững vàng, hình thành kinh nghiệm thực tế, ít sai sót, dễ hoàn thành công việc và thành công trong cuộc sống. Thông thuộc kinh sử, sách vở cổ kim là điều mà các bậc danh nho luôn chú tâm. Phải biết một cách chắc chắn rồi mới làm. Qua thực tế mà tự hoàn thiện bản thân, hạn chế được sai lầm, thiệt hại, tránh làm cho bản thân người khác bị tổn thất. Cuộc sống vốn rất khắc nghiệt, chúng ta không có quá nhiều của cải để mất đi nhiều lần mà có thể hạnh phúc.

Khẳng định: “học” và “hành” là một quá trình biện chứng và liên tục không thể tách rời. Muồn thành công trong cuộc sống cần kết hợp chặt chẽ giữa “học” và “hành”. Cư theo điều học mà làm như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã dạy.

Muốn kết hợp giữa học và hành ta phải làm gì?

Trước hết, theo La Sơn Phu Tử là phải học lấy cái gốc của tri thức. Phải học có hệ thống một cách bài bản, kĩ lưỡng, không được lơ là. Thông hiểu tri thức, thấu hiểu lí lẽ ở đời mới giúp con người có hành động đúng đắn, công việc được trôi chảy. Từ đó đạo đức cũng được đề cao, đạo học được khẳng định mạnh mẽ. Việc nắm vững tri thức sẽ làm nảy sinh khát vọng làm việc và cống hiến của con người.

Biến sự thông hiểu thành hành động hữu ích giúp đời là mục đích của việc học. Tri thức chỉ hữu ích khi nó tạo ra một giá trị nào đó cho cuộc sống con người, thực sự là động lực giúp xã hội ổn định và phát triển. Hành động là hệ quả không thể khác của việc thông hiểu lí thuyết.

Biết phân biệt lẽ đúng sai, phải trái, đề cao lẽ phải, xa rời cái xấu, cái ác, giữ gìn đạo đức và nền chính học là nhiệm vụ của người đi học. Nghĩa là, sự hiểu biết phải phục vụ cho cái tốt, cái đẹp, hướng đến phục vụ con người, vì con người.

Biết kiểm nghiệm tri thức, rút kết kinh nghiệm cho bản thân và có lựa chọn đúng đắn nhất, sáng suốt nhất. Bởi tri thức không phải lúc nào cũng đúng, có khi nó sai lệch, không nên áp dụng một cách khiên cưỡng, rập khuôn máy móc.

Nâng cao giá trị tri thức tự những kinh nghiệm thực là một nhiệm vụ không thể xem nhẹ. Chúng ta không chỉ biết tận hưởng các giá trị tri thức do cha ông để lại mà trách nhiệm của chúng ta là tiếp tục tạo ra các giá trị mới mẻ và tiến bộ, gìn giữ lại cho muôn đời sau.

* Kết bài:

Lời dạy của La Sơn Phu Tử tuy đưa ra cách đây đã mấy thế kỷ nhưng vẫn còn sáng ngời giá trị trong thời đại ngày nay, trở thành kim chỉ nam để cho tuổi trẻ học tập và rèn luyện.

Bình luận (0)
sonagami rinne
Xem chi tiết
Nguyễn Công Tỉnh
21 tháng 3 2018 lúc 16:08
Mở bài:

Không quá xa lạ khi nhắc đến phương pháp học tập hiện tượng là học chay, học vẹt của học sinh ở các trường học hiện nay. Đó là một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Mặc dù nhà trường và chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách, ra sức nỗ lực khắc phục nhưng vẫn chưa thể cải thiện được tình hình. Học sinh ở nước ta vẫn cứ học chay, học vẹt gây. Cách học ấy ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả học tập và chất lượng đào tạo của nền giáo dục.

Thân bài:

Học chay, học vẹt là cách học lệch lạc, sai lầm, phản khoa học.Trong những năm gần đây, nền giáo dục đã có những chuyển biến mạnh mẽ và tích cực. Nội dung và phương pháp giảng dạy có nhiều thay dổi lớn. Thế nhưng, tình trạng họ chay, học vẹt của học sinh vẫn tồn tại. Thậm chí là phổ biến.Tại các trường học, một hình thức dễ thấy nhất đó là dạy học tại lớp. Giáo viên độc giảng còn học sinh chăm chú ghi chép. Với khoảng 10 môn học bắt buộc phải có ghi chép. Tính trung bình mỗi học sinh, trong một năm học phải chép đến hơn 1000 trang vở. Ở một vài khối lớp có thể còn nhiều hơn nữa. Việc ghi chép nhiều cản trở nghiêm trọng đến khả năng lắng nghe, suy nghĩ và trình bày của học sinh.Hầu hết các trường đều có phòng thực hành, phòng thí nghiệm nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu thực tế. Chương trình các môn khoa học tự nhiên thiên về dạy lý thuyết. Bài học thiếu các bài thực hành sinh động. Học sinh học mà không được thực hành khắc sâu kiến thức. Học sinh vẫn học chay, học vẹt trên trang sách.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng học chay học vẹt của học sinh. Trước hết là do chương trình giáo dục thiếu tính khoa học. Giáo dục nước ta vẫn còn nặng về lý thuyết và xem trọng việc học thuộc lòng. Bài học kém sinh động, nhàm chán, ít liên hệ và vận dụng trực tiếp.Dù chương trình giảng dạy đã lạc hậu, trì trệ, không còn phù hợp với thực tế nhưng việc cải tiến, thay đổi lại diễn ra chậm chạp và thiếu tính quyết liệt, đột phá. Tư duy của các nhà giáo dục chưa bắt kịp với thời đại. Sự cẩn trọng vô tình khiến chúng ta tiến chậm hơn thế giới đến mấy chục năm phát triển.Cơ sở vật chất và lực lượng giáo dục dù đã có những bước tiến lớn nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Chính cơ sở vật chất yếu kém làm nảy sinh lối học chay, học vẹt.Các quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của giáo viên và học sinh tuy tích cực, tiến bộ. Song chính nó lại gây trở ngại lớn đối với người dạy học trong công tác quản lí, giảng dạy và khuyến khích học sinh hứng thú học tập và rèn luyện kĩ năng.Có thể so sánh vấn đề này với Hàn Quốc. Những năm 60 thế kỉ trước, Hàn Quốc là một quốc gia kém phát triển và nghèo đói. Để cải cách đất nước, tiến đến tự cường và thịnh vượng, họ đã mạnh dạn cải cách nền giáo dục. Họ đã sao chép nguyên si nền giáo dục Nhật bản và ra sức học tập trên nguyên tác tiếp nhận, vận dụng và phát triển. Kết quả, họ đã từng bước nâng cao nền tri thức, tiến đến sáng tạo và thành công, đưa Hàn Quốc thoát khỏi trì trệ trở thành cường quốc.Cốt lõi của họ là vừa học tập vừa vận dụng vào thực hành. Lý thuyết và hành động phải song song. Họ không ngần ngại học cái hay, cái tốt của người khác. Điều quan trọng đối với họ đó là chương trình giáo dục có thực sự phục vụ sự tiến bộ của con người và đất nước hay không.Một nguyên nhân khác xuất phát từ tâm lí xã hội. Nước ta vốn vừa thoát ra khỏi ý thức Nho học, nặng về giáo dục con người mang tính khuôn mẫu. Học sinh có tâm lí ỷ lại, dựa dẫm nên thường học qua loa, đối phó, không hứng thú đối tri thức khoa học và kĩ năng thực hành.Phương pháp học tậpbảo thủ và sai lầm. Con người chạy theo môn học thời thượng để cầu danh, cầu lợi mà chú trọng đến thực hành. Bởi thế học sinh Việt Nam dù giỏi về lý thuyết nhưng lại kém sáng tạo và kĩ năng vận dụng vào công việc, không thể đáp ứng được nhu cầu đời sống.Cơ chế thi cử khắt khe theo kiểu kiểm tra thuộc bài, Cạnh tranh việc làm khốc liệt khiến cho học sinh phải nỗ lực thi đậu để có trường học. Họ không còn thời gian và hứng thú đối với rèn luyện kĩ năng thực hành. Học chay, học vẹt là một xu thế tất yếu phải xảy ra.Đội ngũ giảng dạy tuy đông đảo, liên tục được bồi dưỡng và nâng cao năng lực nhưng chậm biến đổi và thích ứng với phương thức giáo dục hiện đại. Nhiều thầy cô giáo vẫn kiên trì với hình thức giảng dạy truyền thống đã tồn tại trong mấy chục năm qua vốn đã rất lạc hậu và trì trệ gây ảnh hưởng sâu sắc đến cách học và phương thức tiếp cận, tiếp nhận tri thức của học sinh.Học sinh ngày nay trở nên lười biếng và thụ động hơn các thế hệ trước. Họ ham chơi, ít học, xem thường việc thực hành và rèn luyện kĩ năng, sống buông thả, không biết lo xa

Đầu tiên là học sinh học nhiều nhưng hiểu ít. rất nhiều học sinh thiếu kiến thức, thiếu kĩ năng và năng lực làm việc thực tế. Họ không có năng lực sáng tạo và năng động trong công việc học tập và làm việc. Thực tế cho thấy, mỗi năm có hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ra trường chật vật trong vấn đề tìm kiếm việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp hoặc làm việc việc trái ngành khá phổ biến trong xã hội.Doanh nghiệp than không có người tài. Xã hội bức bối trong vấn đề thất nhiệp của sinh viên. Một lí do rất đơn giản là sinh viên có trình độ nhưng không có kĩ năng làm việc thực tế. Học chay, học vẹt, chạy đua thành tích, trọng bằng cấp thực sự gây tai hại cho nền giáo dục nước nhà.Đất nước đang trên đà phát triển, cần có đội ngũ lao động chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sản xuất. Nhưng lực lượng lao động quá yếu kém. Đây là một vấn đề gây đâu đầu cho các nhà quản lí và tuyển dụng nhân lực trong suốt nhiều năm qua.Học sinh học chay, học vẹt, học nhiều mà không hiểu làm nảy sinh nhận thức lệch lạc, sai lầm, thiếu niềm tin vào cuộc sống. Từ đó mất định hướng, nảy sinh tâm lí bất mãn dễ dẫn đến tệ nạn xã hội và các hành vi phạm pháp.Nền tảng tri thức thấp kém là nguyên nhân dẫn đến các hành vi hối lộ, tham nhũng trong xã hội. Hiện tượng mua việc, chạy việc bổ nhiệm bất hợp lí vốn là vấn đề được đề cập khá nhiều trên báo chí, gây nhức nhối trong xã hội.Một khi hiện tượng này còn tiếp diễn sẽ tiếp tục gây tổn thất lớn lao cho học sinh, gia đình và đất nước.

Để chấm dứt tình trang học chay, học vẹt của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước không còn cách nào khác là nhà nước và nhân dân phải vào cuộc, kiên quyết hành động cùng nhau tháo gỡ.Trước hết là phải đầu tư cải cách toàn diện nền giáo dục. Thay đổi từ chương trình cho đến phương pháp giáo dục. Hướng đến giáo dục phát triển toàn diện năng lực người học. Gắn việc đào tạo với nhu cầu công việc trong thực tế. Cải cách phương thức kiểm tra, thi cử, tuyển dụng. Tạo điều kiện cho người học tiếp cận nền tri thức tiến bộ và dễ dàng tìm được việc làm trong đời sống.Nâng cao tri thức nền tảng trong xã hội. Nhà trường kiên quyết thực hiện chống hiện trạng học chay, học vẹt, học đối phó, chạy theo thành tích.Mỗi học sinh phải tự nỗ lực nâng cao nhận thức, ra sức học tập, rèn luyện tri thức toàn diện cho bản thân, hướng đến kiện toàn kĩ năng, sẵng sàng đáp ứng nhiệm vụ trong đời sống ở tương lai.Tuyên truyền, khuyến khích học tập và làm việc tiến bộ trong đời sống. Phải tạo được môi trường toàn dân học tập, cùng hướng đến sự thịnh vượng chung của đất nước.

Kết bài:

Là học sinh phải phấn đấu trong học tập, rèn luyện nhân cách nhân phẩm tốt đẹp. Xác định mục đích học tập đúng đắn để trở thành người hữu ích mai này đem sức mình xây dựng quê hương, đất nước.

Bình luận (0)
Nguyễn Công Tỉnh
21 tháng 3 2018 lúc 16:08

I. Mở bài:
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi con người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà tinh thần tự học có vai trò vô cùng quan trọng .
II. Thân bài:
1. Giải thích và nêu biểu hiện của tinh thần tự học.
Trước hết ta phải hiểu thế nào là “tinh thần tự học”? Tinh thần tự học là ý thức tự rèn luyện tích cực để thu nhận kiến thức và hình thành kỹ năng cho bản thân.
Quá trình tự học cũng có phạm vi khá rộng: khi nghe giảng, đọc sách hay làm bài tập, cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo nhằm rút ra những điều cần thiết, hữu ích cho bản thân. Tự học cũng có nhiều hình thức: có khi là tự mày mò tìm hiểu hoặc có sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo… Dù ở hình thức nào thì sự chủ động tiếp nhận tri thức của người học vẫn là quan trọng nhất.
2. Bàn luận về tinh thần tự học.
a. Từ cách giải thích ở trên ta thấy tinh thần tự học có ý nghĩa cao đẹp:
– Phải tự học mới thấy hết những ý nghĩa lớn lao của công việc này. Tự học giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống.
– Không những thế tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân .
– Tự học là một công việc gian khổ, đòi hỏi lòng quyết tâm và sự kiên trì. Càng cố gắng tự học con người càng trau dồi được nhân cách và tri thức của mình. Chính vì vậy tự học là một việc làm độc lập, gian khổ mà không ai có thể học hộ, học giúp. Bù lại, phần thưởng của tự học thật xứng đáng: đó là niềm vui, niềm hạnh phúc khi ta chiếm lĩnh được tri thức.
– Biết bao những con người nhờ tự học mà tên tuổi của họ được tạc vào lịch sử. Hồ Chí Minh với đôi bàn tay trắng ra đi từ bến cảng nhà Rồng, nhờ tự học Người biết nhiều ngoại ngữ và đã tìm được đường đi cho cả dân tộc Việt Nam đến bến bờ hạnh phúc. Macxim Gorki với cả một thời thơ ấu gian khổ, không được đi học, bằng tinh thần tự học ông đã trở thành đại văn hào Nga. Và còn rất nhiều những tấm gương khác nữa: Lê Quí Đôn, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền … Nhờ tự học họ đã trở thành những bậc hiền tài, làm rạng danh cho gia đình, quê hương, xứ sở .
b. Bên cạnh những tấm gương tốt về tinh thần tự học, chúng ta cần phê phán những tư tưởng sai lệch. Đó là những thành phần không thấy được tầm quan trọng của việc học dẫn đến không có tinh thần chủ động học tập. Luôn ỷ lại, ù lì, lười nhác, không có ý chí, nghị lực, học tới đâu hay tới đó.
3. Bài học nhận thức và hành động:
Tự học có ý nghĩa quan trọng nên bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê, ham học, ham hiểu biết, giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức. Từ đó bản thân mỗi con người cần có ý chí, nghị lực, chủ động, tích cực, sáng tạo, độc lập trong học tập. Có như vậy mới chiếm lĩnh được tri thức để vươn tới những ước mơ, hoài bão của mình .

III. Kết bài: Đánh giá chung về tinh thần tự học. Cảm nghĩ của bản thân.
Càng hiểu vai trò và ý nghĩa của việc tự học, em càng cố gắng và quyết tâm học tập hơn. Bởi tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực. Có lẽ bởi vậy mà Lê-nin đã từng đặt ra một phương châm: “Học , học nữa, học mãi”.

Bình luận (0)
Nguyễn Công Tỉnh
21 tháng 3 2018 lúc 16:09

Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, là mùa xuân của xã hội. Chúng ta – thế hệ trẻ cần phải xác định cho mình một con đường học tập đúng đắn. Đó là học để biết, học để làm, học để hội nhập và khẳng định bản thân. Vậy mà, trong một bộ phận học sinh chúng ta hiện nay vẫn tồn tại tình trạng học tủ, học vẹt.

“Học tủ” là cách học chọn lọc những kiến thức quan trọng, cần thiết để làm bài kiểm tra, làm bài thi. Cách học này mang tính may rủi rất cao và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, nhất là khi các bạn học sinh đoán sai đề thi. “Học vẹt” là cách nói ẩn dụ, ví cách học của học sinh với con vẹt – bắt chước, nói nhại lại, nhưng không hiểu gì. Khi học thuộc bài, đọc rất trôi chảy nhưng không nắm chắc nội dung, học một cách máy móc và thụ động.

Tuy khái niệm về hai phương pháp học trên là khác nhau nhưng nó đều có cùng một nguyên nhân. Trước hết phải kể đến những nguyên nhân khác quan từ xã hội. Do mặt trái trong tiến trình phát triển của xã hội, định hướng giáo dục của nước ta còn chưa thực sự phù hợp. Ba mẹ nào cũng muốn con mình học hành giỏi giang, nên gây áp lực, khiến con em mình luôn phải “oằn” mình gánh lấy ước mơ lớn lao của cha mẹ.Mặt khác, do chương trình học của bộ giáo dục đề ra nặng về kiến thức, khô khan, cứng nhắc khiến một bộ phận học sinh chán học, học chống đối bằng cách duy nhất là “học tủ” và “học vẹt”.Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận nguyên nhân một phần cũng một phần xuất phát từ chính bản thân mỗi học sinh. Nhiều học sinh ngay từ đầu đã không có mục đích, động cơ học tập rõ ràng dẫn đến lười học, học chưa đúng phương pháp. Đồng thời cũng do một phần là chưa có ý thức tự giác trong học tập, học chống đối, thụ động.

Hai cách học trên là cách học mang tính chất đối phó, không thực sự coi trọng việc tiếp thu kiến thức để tích lũy và nâng cao hiểu biết. Vì là học vẹt, học mà không tư duy cho nên không hiểu, không nắm chắc kiến thức dẫn đến không biết vận dụng vào thực tế, vào thực hành. Việc học như thế dẫn đến tốn thời gian, vô bổ. Vì là học tủ, cho nên không nắm bắt kiến thức một cách đầy đủ, toàn diện, phụ thuộc vào sự may mắn, nếu lệch tủ sẽ không đạt được kết quả như mong muốn, phụ công ơn thầy cô, tốn tiền bạc của bố mẹ. Đồng thời, cũng tạo ra một thói quen xấu, làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của việc học, và trở thành những con người không trung thực. Việc “học tủ”, “học vẹt” không chỉ nguy hại cho bản thân mỗi học sinh mà còn ảnh hưởng đến xã hội. Thử hỏi xem, một đất nước toàn bộ học sinh chỉ biết gian dối, học chống đối, không có kiến thức thực chất, thì phát triển ra sao? Xã hội sẽ mất niềm tin vào ngành giáo dục của đất nước, chất lượng giảm sút, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước.

Nếu ai cũng có ý thức, có định hướng cho riêng mình, biết suy nghĩ về hành vi, việc làm của mình thì tin chắc rằng sẽ không còn ai nhắc đến căn bệnh “học vẹt”, “học tủ” nữa. Lúc đó mỗi học sinh sẽ có những kiến thức cần thiết để chuẩn bị hành trang bước vào đời góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.

Bình luận (0)
Minh Ngọc
Xem chi tiết
Lê Thị Kim Ánh
27 tháng 4 2018 lúc 21:01

theo mik nghĩ là phân tích cả bài " Ngắm trăng" các bài còn lại nếu có thời gian thì mik nghĩ cx nên phân tích sơ lược cả bài nhưng cũng cần chọn ra các ý chính để phân tích kĩ.

Bình luận (0)